Phạm Thị Ly
(Bài đăng báo Tuổi trẻ Cuối Tuần ngày 13.3.2018)
Một nghiên cứu của Scott C. Beardsley xuất bản năm 2017 cho biết, số liệu thống kê đang phản ánh xu hướng ngày càng nhiều người bên ngoài giới hàn lâm được chọn vào vai trò lãnh đạo trường ĐH. Năm 2014, ở Mỹ tỉ lệ này là 62%. 62% hiệu trưởng các trường chưa hề có kinh nghiệm quản lý hàn lâm trước đó (được định nghĩa là đã từng nắm các chức vụ từ giáo sư đến trưởng bộ môn, trưởng khoa, phó hiệu trưởng và hiệu trưởng).
Xu hướng này đã gây nên những tranh cãi mạnh mẽ trong giới hàn lâm cũng như giới quản lý, giữa những người ủng hộ và những người phản đối, tuy rằng ai tranh cãi thì cứ tranh cãi, con số thống kê cho biết tỉ lệ hiệu trưởng phi truyền thống (tức là không thuộc giới academic) không ngừng tăng từ năm 1989 đến nay, và xu hướng đó có vẻ như không thể đảo ngược.
Giới hàn lâm nghĩ gì?
Giới quản lý chuyên nghiệp và có nhiều kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp khi nắm vai trò quản lý điều hành trường ĐH đã áp dụng triệt để các nguyên tắc quản lý theo hiệu quả, nói theo ngôn ngữ của giới doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận: tăng nguồn thu, giảm chi phí. Điều này được biện minh là nhằm đáp ứng với một thực tế là ngân sách nhà nước cấp cho các trường ĐH đã không ngừng giảm đi trên phạm vi toàn cầu. Hệ quả là, trong bối cảnh Hoa Kỳ, số giảng viên trong biên chế đã giảm mạnh, thay bằng giảng viên hợp đồng, những người nhận đồng lương rẻ mạt, không có gì bảo đảm an toàn về chỗ làm và các phúc lợi. Một phần tư giảng viên hợp đồng trong các ĐH Mỹ phải nhận sự trợ giúp từ các chương trình hỗ trợ người nghèo của chính phủ, có những người không nhà phải sống ngay trên chiếc xe hơi của mình và ngập trong nợ nần. Tỉ lệ giảng viên ngoài biên chế hiện nay đang là 75% trên tổng số giảng viên ĐH ở Mỹ.
Thế nhưng học phí ở Mỹ vẫn không ngừng tăng. Học phí ĐH kể cả ăn ở năm 1931 là 1200 USD một năm, tương đương 19 ngàn USD ngày nay. Hiện giờ, con số đó vào khoảng 52 ngàn, tức là tăng gần ba lần. Thêm vào đó, triển vọng việc làm của sinh viên tốt nghiệp cũng không còn sáng sủa như trước. Trong lúc đó, lương trung bình của các hiệu trưởng Mỹ là 418 ngàn USD một năm, gấp 3,8 lần so với lương giáo sư biên chế.
Tuy vậy, cũng không thể phủ nhận một sự thật là các trường ĐH Mỹ trong nhiều thập niên qua đã đóng vai trò chính trong việc tạo ra tri thức, tiến bộ khoa học công nghệ, và nhiều thành tựu quan trọng khác.
Những con số trên đây phản ánh một số hiện tượng nổi bật trong GDĐH, nhưng những hiện tượng đó có liên quan với nhau như thế nào là một vấn đề không thể kết luận võ đoán mà cần phải nghiên cứu. Trên phạm vi toàn cầu các trường ĐH nghiên cứu Mỹ vẫn chiếm giữ những vị trí quan trọng từ năm này sang năm khác. Cũng cần lưu ý là nghiên cứu trên đây đã cho biết, dựa trên bảng xếp hạng ĐH US News & World Report trong ngũ phân vị thứ nhất tỉ lệ hiệu trưởng phi truyền thống là 14%, trong lúc ở nhóm cuối, thì tỉ lệ này là 44% tức là hiệu trưởng phi truyền thống chủ yếu nằm ở nhóm các trường thứ hạng thấp hơn và quy mô nhỏ, nhưng điều này không có nghĩa những trường lớn và có uy tín không có lãnh đạo thuộc loại này.
Giới hàn lâm nói chung không hưởng ứng xu hướng này. Nhiều người trung thành với quan niệm truyền thống cho rằng trường ĐH là để phục vụ lợi ích công và không nên biến nó thành một doanh nghiệp, vì lợi ích mà một trường ĐH tạo ra cho xã hội không phải chỉ thể hiện trên bản cân đối thu chi của trường. Cách quản lý theo lối doanh nghiệp nhấn mạnh việc đo lường những thành quả tức thời, vì thế không khích lệ việc theo đuổi những mục tiêu dài hạn. Điều này có thể mâu thuẫn với bản chất của nghiên cứu khoa học là tìm kiếm tri thức mới, dù tri thức ấy có khi vài chục năm sau mới biến thành tiến bộ công nghệ, hoặc có khi chỉ là thỏa mãn nhu cầu mở rộng biên giới trí tuệ.
Merson trong một bài báo có tên là “Giáo viên và huyền thoại hiện đại hóa” năm 2001 nói rằng, “Các nhà quản lý đang được trao quyền lực giám sát và kiểm soát việc làm của giáo viên nhằm đảm bảo sự tuân thủ của họ và tăng năng suất. An toàn chỗ làm của nghề giáo đã suy giảm trầm trọng. Nhiệm vụ của nhà giáo giờ đây ngày càng bị thu hẹp lại. Người ta khích lệ các thầy giáo cạnh tranh với nhau để được khen thưởng về mức độ tuân thủ. Thật là khó mà duy trì truyền thống hợp tác và cộng sự trong bối cảnh ấy”.
Việc tăng cường kiểm soát đối với lao động hàn lâm ở đại học vấp phải sự phản kháng dưới nhiều góc độ. Giới hàn lâm cho rằng các nhà quản lý đại học (theo lối doanh nghiệp) đang tập trung vào lợi ích của giới quản lý trong việc điều hành hoạt động của trường. Teresa Carvalhol và Rui Santiego trong cuốn sách xuất bản năm 2016 nói rằng tự chủ là một khái niệm căn bản của hoạt động chuyên môn, đặc biệt là với lao động học thuật, và nó được ủng hộ bởi niềm tin của xã hội. Vì thế một hệ thống thứ bậc, được dẫn dắt bởi áp lực thị trường sẽ dẫn đến xói mòn mức độ tự chủ của hoạt động chuyên môn và do đó ảnh hưởng tiêu cực tới thực tiễn hoạt động và những giá trị của nghề hàn lâm, kể cả trong nghiên cứu và giảng dạy.
Và những quan điểm ngược lại
Trong khi đó, có rất nhiều lý do để giải thích cho xu hướng bổ nhiệm hiệu trưởng ĐH là những người thuộc giới doanh nghiệp. Vài ví dụ gần đây có thể nêu là Janet Napolitano, nguyên bộ trưởng Bộ Nội an Mỹ, được bổ nhiệm hiệu trưởng hệ thống ĐH University of California năm 2013. Clayton Rose, vốn là phó chủ tịch Ngân hàng JPMorgan làm hiệu trưởng Bowdoin College từ năm 2015. Năm 2016, South Carolina State University cũng bổ nhiệm James Clark, vốn là nhà quản lý cấp cao của công ty AT&T vào vị trí hiệu trưởng.
Một lý do dễ thấy nhất, là những phẩm chất, kiến thức và kỹ năng của một nhà khoa học giỏi rất khác với những kiến thức và kỹ năng mà một nhà quản lý hay lãnh đạo trường ĐH cần có. Nghiên cứu khoa học và giảng dạy, so với quản lý lãnh đạo một trường ĐH là những công việc rất khác nhau, thậm chí quản lý một khoa cũng rất khác với lãnh đạo một trường ĐH, và kinh nghiệm của việc này không chắc là có ích gì cho việc kia, nếu không nói là có khi còn cản trở.
Trường ĐH là một cỗ máy tốn kém. Hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm chính trong việc tìm kiếm đủ nguồn lực duy trì cỗ máy tốn kém ấy. Nếu nhà nước là người bao cấp hoàn toàn cho ĐH, thì chẳng nói làm gì. Nhưng trong bối cảnh nguồn cung của ngân sách thu hẹp lại, thì việc tìm kiếm những nguồn thu mới để bù đắp, cạnh tranh để giành sinh viên, thuyết phục các nhà tài trợ, mở ra những hướng đi mới và thắt chặt quan hệ với giới doanh nghiệp trở thành những việc quyết định sự sống còn của nhà trường. Những việc đó rất khác với pha chế trong phòng thí nghiệm, giảng dạy hay hướng dẫn cho sinh viên.
Thời của chúng ta ngày nay, dưới sự phát triển quá nhanh của công nghệ, tất cả đều đang thay đổi. Để đáp ứng với sự thay đổi đó, con người ngày càng cần biết rộng hơn, sâu hơn, vừa phải có kiến thức liên ngành, vừa phải có kỹ năng chuyên môn hóa. Một nghề phức tạp và cần trình độ cao như nghề quản lý, lại là quản lý một thực thể phức tạp như trường ĐH, thì lại càng cần phải nhấn mạnh tính chuyên nghiệp hơn bao giờ hết.
Vì thế, tuy vẫn cần hiểu biết về bản chất của hoạt động hàn lâm và những chuẩn mực học thuật, hiệu trưởng ĐH ngày nay còn phải thường trực giải quyết bài toán tìm kiếm nguồn thu, đáp ứng với những yêu cầu và quy định của nhà nước, và hơn thế nữa, giải trình trách nhiệm trước con mắt phê bình nghiêm ngặt của công chúng trên mạng xã hội. Một người có kinh nghiệm quản lý trong giới doanh nghiệp thường sẽ rất quen thuộc với những bài toán như vậy, và vì không bị hạn chế trong lối nghĩ truyền thống của giới hàn lâm, có thể tìm kiếm được những giải pháp mới để vượt qua thách thức. Đấy là lý do khiến các trường đang lâm vào tình trạng khủng hoảng có xu hướng tìm kiếm hiệu trưởng bên ngoài giới hàn lâm nhiều hơn.
Sue Shepherd trong một bài viết năm 2017 cho rằng “các nhà tân tự do coi thị trường như là cơ chế hữu hiệu nhất cho việc phân phối tiền bạc, hàng hóa và dịch vụ. Một nền kinh tế dựa trên thị trường tự do là điều kiện cho thịnh vượng về kinh tế bởi nó mang lại tự do lựa chọn cho khách hàng”. Bà nói rằng trong giáo dục đại học cũng thế, chỉ dựa trên niềm tin thì không đủ để bảo đảm cho trách nhiệm giải trình, và các nhà quản lý chính là đang tìm kiếm giải pháp cho việc giải quyết những vấn đề của việc phát triển nhà trường trong bối cảnh nguồn lực thu hẹp và đòi hỏi về trách nhiệm giải trình ngày càng cao.
Thực tế Việt Nam
Hiện nay, Luật GDĐH quy định hiệu trưởng trường ĐH phải có bằng tiến sĩ và năm năm kinh nghiệm quản lý trong hệ thống ĐH (được hiểu là đã trải qua các chức vụ từ trưởng bộ môn trở lên). Quy định này áp dụng đối với cả trường công và tư. Vì thế, danh chính ngôn thuận thì các hiệu trưởng ĐH ở Việt Nam đều là người xuất thân từ giới hàn lâm.
Câu hỏi đặt ra là chúng ta có nên chấp nhận hoặc khích lệ xu hướng trên đây hay không, nếu có hoặc nếu không thì vì sao. Cũng cần lưu ý một thực tế là trong làn sóng mở trường tư ào ạt trước đây, bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn bài bản và những nhà giáo tâm huyết, có những người không có chút kinh nghiệm và hiểu biết gì trong giới ĐH cũng mở trường như một dịch vụ có thể kiếm lời nhiều và nhanh. Tuy vậy, qua ba thập niên phát triển, thị trường GDĐH tư ở Việt Nam đang dần điều chỉnh theo xu hướng lành mạnh hơn, tập trung vào một số nhóm các nhà đầu tư có năng lực và nguồn lực.
Một xu hướng khác cũng đang rõ nét là đầu tư công cho GDĐH nhìn chung cũng sẽ giảm và tập trung hơn, nghĩa là nhiều trường công sẽ trở thành tự chủ tài chính và phải trực tiếp cạnh tranh trên thị trường. Cơ cấu tài chính ĐH cũng sẽ đa dạng hơn, không phải chỉ từ nguồn ngân sách cấp và học phí, mà còn từ các hợp đồng với doanh nghiệp, từ đầu tư và đóng góp, hiến tặng. Trong bối cảnh đó, cùng với quyền tự chủ của ĐH đang được tiếp tục mở rộng, năng lực của hiệu trưởng sẽ trở thành nhân tố quyết định cho sự thành bại của nhà trường. Vì thế, việc tạo điều kiện để các trường lựa chọn người lãnh đạo và quản lý phù hợp sẽ gíup các trường tăng cường năng lực cạnh tranh để tồn tại.
Tuy thế, để cân bằng lợi ích của các bên trong trường (của giới quản lý, giới hàn lâm và đặc biệt là người học), cũng như ngoài trường (lợi ích của nhà trường và của xã hội), giữa lợi ích ngắn hạn và dài hạn, cần có các thiết chế quản trị nội bộ nhằm đảm bảo cho cơ chế ra quyết định của trường có thể bao hàm được quan điểm và tiếng nói của các bên. Vì thế, vẫn phải củng cố thiết chế hội đồng trường, hơn thế nữa, hội đồng khoa học, hội đồng giảng viên, để họ tham gia vào quá trình định hướng nhà trường và có vai trò trong những quyết định quan trọng của trường.
0 Comments