Tuyên ngôn độc lập của VN năm 1945 mở đầu bằng chính những lời trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ:
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.”
Điều này cho thấy những từ “bình đẳng”, “tự do” có sức thu hút mãnh liệt như thế nào. Vấn đề là, người ta đã hiểu rất khác nhau về ý nghĩa của các từ “bình đẳng”, “tự do”, và sự khác nhau trong cách hiểu ấy đã mang đến bao nhiêu là bi kịch cho nhân loại.
Tôi dịch bản tiểu luận của Milton Friedman dưới đây sang tiếng Việt và giới thiệu với các bạn, vì nó trả lời đầy đủ câu hỏi về thế nào là “bình đẳng”, “tự do” và những hệ quả mà những cách hiểu đó gây ra. Điều thú vị với tôi là trong bài có giải thích vai trò của giới trí thức.
“ĐƯỢC TẠO RA BÌNH ĐẲNG” CÓ NGHĨA LÀ GÌ?
Tác giả: Milton Friedman
Ngày 8 tháng 3 năm 2018
Người dịch: Ly Pham (04.2021) (với sự trợ giúp của Gg Translate)
Bản tiếng Anh: https://www.hoover.org/research/what-does-created-equal-mean
[Ghi chú của người biên tập: Bài tiểu luận này là một phần trích trong cuốn sách mới của Nhà xuất bản Hoover Milton Friedman nói về Tự do , do Robert Leeson và Charles G. Palm hiệu đính. Bài tiểu luận này của Friedman vốn xuất hiện lần đầu trong cuốn sách Tự do lựa chọn: Một tuyên bố cá nhân].
“Bình đẳng, tự do” —những từ này trong Tuyên ngôn Độc lập có nghĩa chính xác là gì? Liệu những lý tưởng mà nó thể hiện có thể trở thành hiện thực trong thực tế? Bình đẳng và tự do liệu có nhất quán hay là mâu thuẫn với nhau?
Từ lâu trước khi có Tuyên ngôn Độc lập, những câu hỏi ấy đã đóng vai trò trung tâm trong lịch sử Hoa Kỳ. Nỗ lực trả lời những câu hỏi đó đã định hình bầu không khí trí tuệ của các quan điểm, dẫn đến các cuộc chiến đẫm máu, và tạo ra những thay đổi lớn trong thể chế kinh tế và chính trị. Nỗ lực này vẫn đang tiếp tục chi phối cuộc tranh luận chính trị của chúng ta. Nó sẽ định hình tương lai của chúng ta giống như đã từng định hình quá khứ của nước Mỹ.
Trong những thập kỷ đầu của nền Cộng hòa, bình đẳng có nghĩa là bình đẳng trước Chúa; tự do có nghĩa là tự do định hình cuộc sống của chính mình. Xung đột hiển nhiên giữa nội dung của Tuyên ngôn Độc lập và thể chế nô lệ lúc đó đã là trung tâm của vũ đài chính trị. Xung đột đó cuối cùng đã được giải quyết bằng Nội chiến.
Cuộc tranh luận sau đó đã chuyển sang một cấp độ khác. Bình đẳng ngày càng được hiểu là “bình đẳng về cơ hội” theo nghĩa là không ai bị ngăn cản bởi những trở ngại tùy tiện trong việc sử dụng năng lực của mình để theo đuổi các mục tiêu của riêng mình. Đó vẫn là ý nghĩa chủ đạo của “bình đẳng” đối với hầu hết mọi công dân của nước Mỹ.
Sự bình đẳng trước Chúa hay bình đẳng về cơ hội đều không có bất kỳ mâu thuẫn nào với quyền tự do định hình cuộc sống của chính mình. Hoàn toàn ngược lại. Bình đẳng và tự do là hai khía cạnh có cùng giá trị cơ bản – mỗi cá nhân phải được coi là cứu cánh của chính mình.
Một ý nghĩa rất khác của bình đẳng đã xuất hiện ở Hoa Kỳ trong những thập kỷ gần đây – bình đẳng về kết quả. Mọi người nên có mức sống hoặc thu nhập như nhau, nên hoàn thành cuộc đua cùng một lúc. Bình đẳng về kết quả mâu thuẫn rõ ràng với tự do. Nỗ lực thúc đẩy nó là cội nguồn chính của việc chính phủ ngày càng lớn hơn và theo đó là những hạn chế do chính phủ áp đặt đối với quyền tự do của chúng ta.
BÌNH ĐẲNG TRƯỚC CHÚA
Khi Thomas Jefferson, ở tuổi ba mươi ba, viết “tất cả mọi người đàn ông đều được tạo ra bình đẳng”, ông và những người cùng thời đã không dùng những từ này theo nghĩa đen. Họ không coi nam giới – hay như chúng ta thường nói ngày nay, con người – bình đẳng về đặc điểm thể chất, phản ứng cảm xúc, khả năng cơ học và trí tuệ. Bản thân Thomas Jefferson là một người nổi bật bậc nhất. Ở tuổi hai mươi sáu, ông thiết kế ngôi nhà xinh đẹp của mình tại Monticello (tiếng Ý có nghĩa là “ngọn núi nhỏ”), giám sát việc xây dựng nó, và thực sự, người ta cho rằng ông đã tự mình thực hiện một số phần việc trong công trình đó. Trong cuộc đời của mình, ông là một nhà phát minh, một học giả, một tác giả, một chính khách, thống đốc bang Virginia, tổng thống Hoa Kỳ, bộ trưởng Pháp, người sáng lập Đại học Virginia – khó lòng mà xem ông là một người trung bình.
Manh mối giúp chúng ta hiểu cách nghĩ của Thomas Jefferson và những người đương thời của ông về ý nghĩa từ “bình đẳng’ là ở cụm từ tiếp theo trong Tuyên ngôn – “được Tạo hóa ban tặng cho một số quyền bất khả xâm phạm; trong những quyền ấy có quyền sống, quyền tự do và theo đuổi hạnh phúc.”
Con người bình đẳng trước Chúa. Sự quý giá của từng người đều nằm ở bản thân chính họ. Họ có những quyền bất khả xâm phạm, những quyền mà không ai khác được quyền xâm phạm. Họ có quyền phục vụ các mục đích của riêng mình và không bị coi chỉ đơn giản là một công cụ để thúc đẩy mục đích của người khác. “Tự do” là một phần của định nghĩa bình đẳng, không mâu thuẫn với nó.
Bình đẳng trước Đức Chúa Trời – bình đẳng cá nhân – là một điều quan trọng, chính xác bởi vì mọi người không giống nhau. Giá trị khác nhau của họ, sở thích khác nhau, năng lực khác nhau của họ sẽ khiến họ muốn có những cuộc sống rất khác nhau. Bình đẳng cá nhân đòi hỏi sự tôn trọng đối với quyền của họ được làm như vậy, chứ không phải là sự áp đặt lên họ các giá trị hoặc sự phán xét của người khác. Jefferson không nghi ngờ gì rằng một số người vượt trội hơn những người khác, rằng có một số người ưu tú hơn. Nhưng điều đó không cho họ quyền cai trị người khác.
Nếu một người ưu tú không có quyền áp đặt ý chí của mình lên người khác, thì bất kỳ nhóm nào khác, ngay cả đa số cũng vậy. Mỗi người phải là người cai trị của chính mình – miễn là anh ta không can thiệp vào quyền tương tự của người khác. Chính phủ được thành lập để bảo vệ quyền đó – quyền không bị người khác can thiệp vào đời mình- của người dân trong nước và bảo vệ họ trước những mối đe dọa từ bên ngoài – chứ không phải để đưa ra những quy tắc kiểm soát theo đa số.
Jefferson đã có ba thành tựu mà ông muốn được ghi nhớ trên bia mộ của mình: (1)quy chế Virginia về tự do tôn giáo (tiền thân của Luật về quyền của công dân ở Hoa Kỳ, một văn bản được thiết kế để bảo vệ các nhóm thiểu số chống lại sự thống trị của đa số), (2)quyền tác giả của Tuyên ngôn Độc lập và (3)việc thành lập Đại học Virginia. Mục tiêu của những người xây dựng nên Hiến pháp Hoa Kỳ, do những người cùng thời với Jefferson soạn thảo, là một chính phủ quốc gia đủ mạnh để bảo vệ đất nước và thúc đẩy phúc lợi chung nhưng đồng thời cũng có quyền lực trong một phạm vi hạn chế để bảo vệ từng công dân, và tách các chính phủ tiểu bang, khỏi sự thống trị của chính phủ quốc gia. Dân chủ, theo nghĩa là sự tham gia rộng rãi vào chính phủ, thì đúng; nhưng theo ý nghĩa chính trị của quy tắc thiểu số phục tùng đa số, thì rõ ràng là không phải tinh thần của Hiến pháp.
Tương tự, Alexis de Tocqueville, nhà triết học và xã hội học chính trị nổi tiếng người Pháp, trong cuốn sách kinh điển của ông mang tên Nền dân chủ Mỹ, được viết sau một chuyến thăm dài vào những năm 1830, đã coi bình đẳng chứ không phải quy tắc đa số quyết định thiểu số là đặc điểm nổi bật của nước Mỹ.
Ông viết:
“Ở Mỹ, bộ phận quý tộc thượng lưu đã luôn yếu ớt ngay từ khi mới sinh ra; và nếu ngày nay nó không thực sự bị phá hủy, thì cũng hoàn toàn bị vô hiệu hóa ở mọi cấp độ, đến mức chúng ta khó có thể gán cho nó bất kỳ mức độ ảnh hưởng nào đối với tiến trình lịch sử.
Ngược lại, nguyên tắc dân chủ đã đạt được ngày càng nhiều sức mạnh theo thời gian, bởi các sự kiện và pháp luật, đến nỗi nó không chỉ trở thành chủ đạo mà còn là toàn năng. Không có quyền hạn của gia đình hoặc công ty. Nước Mỹ, sau đó, thể hiện trong trạng thái xã hội của mình một hiện tượng phi thường nhất. Ở đó, con người được coi là bình đẳng về tài sản và trí tuệ, hay nói cách khác, bình đẳng hơn về sức mạnh của họ, hơn bất kỳ quốc gia nào khác trên thế giới, hoặc trong bất kỳ thời đại nào mà lịch sử đã lưu giữ lại”.
Tocqueville rất ngưỡng mộ những gì ông quan sát được ở nước Mỹ, nhưng ông hoàn toàn không phải là một người ngưỡng mộ phi lý, vì sợ rằng nền dân chủ đi quá xa có thể làm xói mòn đức tính công dân. Như ông đã nói, “Có một niềm đam mê rất con người và rất hợp pháp đối với sự bình đẳng, thúc đẩy con người mong muốn ai cũng có sức mạnh và được tôn vinh. Niềm đam mê này có xu hướng nâng người khiêm tốn lên cấp bậc vĩ đại; nhưng trong trái tim con người cũng tồn tại một hương vị sa đọa đối với sự bình đẳng, điều này thúc giục kẻ yếu tìm cách hạ thấp kẻ quyền lực xuống ngang hàng với họ, và hạ thấp con người tới chỗ thích thà là cùng nhau bình đẳng trong chế độ nô lệ còn hơn là bất bình đẳng mà có tự do”.
Đó là bằng chứng nổi bật cho sự thay đổi ý nghĩa của các từ và cho thấy trong những thập kỷ gần đây Đảng Dân chủ Hoa Kỳ đã là công cụ chính để củng cố quyền lực của chính phủ, điều mà Jefferson và nhiều người cùng thời với ông coi là mối đe dọa lớn nhất đối với nền dân chủ. Và người ta đã nỗ lực để tăng quyền lực của chính phủ nhân danh khái niệm “bình đẳng”, nhưng khái niệm “bình đẳng” ấy gần như đối lập với khái niệm bình đẳng mà Jefferson đã xác định trong mối quan hệ với tự do và Tocqueville xác định trong quan hệ với dân chủ.
Tất nhiên việc thực hành của các Tổ phụ sáng lập không phải lúc nào cũng tương ứng với lời rao giảng của họ. Xung đột rõ ràng nhất là chế độ nô lệ. Bản thân Thomas Jefferson sở hữu nô lệ cho đến ngày ông chết — ngày 4 tháng 7 năm 1826. Ông luôn cảm thấy đau khổ về chế độ nô lệ, đề xuất trong các ghi chú và thư từ kế hoạch xóa bỏ chế độ nô lệ, nhưng không bao giờ đề xuất công khai bất kỳ kế hoạch nào như vậy hoặc vận động chống lại chế độ này.
Tuy nhiên, Tuyên ngôn do ông soạn thảo hoặc là sẽ bị vi phạm một cách trắng trợn bởi quốc gia mà ông đã dày công tạo dựng và hình thành hoặc chế độ nô lệ phải bị bãi bỏ. Không mấy ai ngạc nhiên về việc trong những thập kỷ đầu của nền Cộng hòa đã có một làn sóng tranh cãi ngày càng tăng về chế độ nô lệ. Sự bất đồng này đã kết thúc bằng một cuộc Nội chiến, theo lời của Bài diễn văn Gettysburg của Abraham Lincoln, là một cuộc chiến đã kiểm nghiệm xem liệu một quốc gia, được hình thành trong tinh thần tự do và cống hiến cho một xác quyết cho rằng tất cả mọi người đều được tạo ra bình đẳng, một quốc gia như thế có thể tồn tại nổi lâu dài hay không”. Đất nước này đã tồn tại trên tinh thần đó nhưng chỉ với một cái giá to lớn về tính mạng, tài sản và sự cố kết xã hội.
BÌNH ĐẲNG VỀ CƠ HỘI
Khi Nội chiến đã xóa bỏ chế độ nô lệ và khái niệm bình đẳng cá nhân – bình đẳng trước Chúa và luật pháp – gần trở nên hiện thực hơn, thì điểm nhấn trong các cuộc thảo luận trí tuệ cũng như trong chính sách của chính phủ và tư nhân chuyển sang một khái niệm khác – bình đẳng về cơ hội.
Bình đẳng theo nghĩa đen về cơ hội – với nghĩa đồng nhất – là không thể. Có đứa trẻ bị mù bẩm sinh, đứa trẻ khác thì có thị lực. Có những đứa trẻ được cha mẹ quan tâm sâu sắc, sinh ra trong một gia đình có khả năng mang lại cho nó nền tảng văn hóa và hiểu biết; trong khi những đứa trẻ khác có cha mẹ sống phóng túng, bừa bãi. Có đứa trẻ được sinh ra ở Hoa Kỳ, trong lúc những đứa trẻ khác sinh ra ở Ấn Độ hoặc Trung Quốc hoặc Nga. Những đứa trẻ này rõ ràng không có những cơ hội giống hệt nhau mở ra cho chúng khi sinh ra, và không có cách nào để các cơ hội của chúng có thể giống hệt nhau.
Giống như bình đẳng cá nhân, bình đẳng về cơ hội không được hiểu theo nghĩa đen. Ý nghĩa thực sự của nó có lẽ được thể hiện rõ nhất bằng cách diễn đạt tiếng Pháp có từ thời Cách mạng Pháp: Une carrière ouverte aux les talent —một sự nghiệp rộng mở cho các tài năng. Không có trở ngại chuyên quyền nào ngăn cản mọi người đạt được những vị trí phù hợp với tài năng của họ và những giá trị mà họ tìm kiếm. Không phải ngày sinh, quốc tịch, màu da, tôn giáo, giới tính hay bất kỳ đặc điểm ngoại tại nào khác sẽ quyết định cơ hội mở ra cho một người — ngoại trừ chính khả năng của người đó.
Theo cách hiểu này, bình đẳng về cơ hội diễn đạt chi tiết hơn ý nghĩa của bình đẳng cá nhân, bình đẳng trước pháp luật. Và cũng giống như bình đẳng cá nhân, nó có ý nghĩa và tầm quan trọng chính xác bởi vì mọi người khác nhau về đặc điểm di truyền và văn hóa của họ, do đó cả hai đều muốn và có thể theo đuổi những nghề nghiệp khác nhau.
Bình đẳng về cơ hội, giống như bình đẳng cá nhân, không mâu thuẫn với tự do; trái lại, nó là một thành phần thiết yếu của tự do. Nếu một số người bị từ chối tiếp cận với các vị trí cụ thể trong cuộc sống mà họ có đủ điều kiện chỉ vì lý do dân tộc, màu da hoặc tôn giáo của họ, thì đó chính là sự can thiệp vào “quyền sống, quyền Tự do và mưu cầu Hạnh phúc” của họ. Nó phủ nhận sự bình đẳng về cơ hội và, đồng thời, hy sinh quyền tự do của một số người vì lợi ích của những người khác.
Giống như mọi lý tưởng khác, bình đẳng về cơ hội không có khả năng được thực hiện đầy đủ. Không nghi ngờ gì nữa, những bước tiến lớn lao nhất là đối với người da đen, đặc biệt là ở miền Nam cũng như ở miền Bắc. Tuy nhiên, cũng có những tiến bộ to lớn đối với các nhóm khác. Chính khái niệm về nước Mỹ như một “cái nồi hầm” – ý nói về sự đa dạng về nguồn gốc và văn hóa- đã phản ánh mục tiêu bình đẳng về cơ hội. Việc mở rộng giáo dục miễn phí ở các cấp tiểu học, trung học và cao hơn cũng vậy.
Sự ưu tiên dành cho sự bình đẳng về cơ hội trong thứ bậc các giá trị nói chung được công chúng chấp nhận sau Nội chiến đã được thể hiện đặc biệt rõ trong chính sách kinh tế. Khẩu hiệu lúc đó là tự do khởi nghiệp, tự do cạnh tranh, không can thiệp. Mọi người được quyền tự do kinh doanh, theo bất kỳ nghề nghiệp nào, mua bất kỳ tài sản nào, chỉ tuân theo thỏa thuận của các bên khác trong giao dịch. Mỗi người đều có cơ hội gặt hái lợi ích nếu thành công, và phải chịu mất mát nếu thất bại. Không có trở ngại áp đặt tùy tiện từ bên ngoài. Hiệu quả, chứ không phải ngày sinh, tôn giáo hay quốc tịch, là nền tảng.
Một hệ quả của tình trạng đó là sự phát triển của thứ mà những người tự coi mình là tầng lớp có văn hóa thường chế nhạo: chủ nghĩa tôn sùng vật chất thô tục – sự nhấn mạnh vào đồng đô la toàn năng, coi sự giàu có vừa là biểu tượng vừa là dấu ấn của sự thành công. Như Tocqueville đã chỉ ra, việc nhấn mạnh này phản ánh sự không sẵn lòng của cộng đồng trong việc chấp nhận các tiêu chí truyền thống trong các xã hội phong kiến và quý tộc, đó là sinh sản và huyết thống. Hiệu suất là giải pháp thay thế rõ ràng, và tích lũy của cải là thước đo hiệu suất dễ sử dụng nhất.
Tất nhiên, một hệ quả khác là sự giải phóng mạnh mẽ năng lượng của con người đã khiến nước Mỹ trở thành một xã hội ngày càng năng động và hiệu quả, trong đó sự chuyển dịch giữa các tầng lớp xã hội là một thực tế hàng ngày. Một điều khác, có lẽ đáng ngạc nhiên là sự bùng nổ trong hoạt động từ thiện. Sự bùng nổ này có được nhờ sự giàu có gia tăng nhanh chóng. Nó diễn ra theo hình thức như vậy — các bệnh viện phi lợi nhuận, các trường cao đẳng và đại học do tư nhân tài trợ, rất nhiều tổ chức từ thiện hướng đến việc giúp đỡ người nghèo — vì trong các giá trị chủ đạo của xã hội, thúc đẩy bình đẳng về cơ hội đặc biệt được coi trọng.
Tất nhiên, trong lĩnh vực kinh tế cũng như những nơi khác, thực tiễn không phải lúc nào cũng phù hợp với lý tưởng. Chính phủ được giữ ở vai trò thứ yếu; không có trở ngại lớn nào đối với doanh nghiệp được dựng lên; và, vào cuối thế kỷ 19, các biện pháp tích cực của chính phủ, đặc biệt là Luật Chống độc quyền Sherman, đã được thông qua để loại bỏ các rào cản tư nhân đối với cạnh tranh. Nhưng những thỏa thuận ngoài pháp luật tiếp tục cản trở quyền tự do của các cá nhân trong việc tham gia vào các doanh nghiệp hoặc ngành nghề khác nhau, và thực tiễn xã hội chắc chắn đã mang lại lợi thế đặc biệt cho những người sinh ra trong các gia đình “đúng”, có màu da “đúng” và theo tôn giáo “đúng đắn”. Tuy nhiên, sự gia tăng nhanh chóng về vị trí kinh tế và xã hội của các nhóm ít đặc quyền hơn chứng tỏ rằng những trở ngại này không có nghĩa là không thể vượt qua.
Đối với các biện pháp của chính phủ, một sai lệch lớn so với thị trường tự do là ở ngoại thương, trong đó Báo cáo về Sản xuất của Alexander Hamilton đã đề cập đến việc bảo hộ thuế quan đối với các ngành công nghiệp trong nước như một phần trong cách làm của Mỹ. Bảo hộ thuế quan không phù hợp với sự bình đẳng triệt để về cơ hội và thực tế là với việc tự do nhập cư của con người, vốn là quy tắc xưa kia cho đến Thế chiến thứ nhất, ngoại trừ trường hợp người Phương Đông. Tuy nhiên, nó có thể được hợp lý hóa cả bởi nhu cầu bảo vệ quốc gia và trên một nền tảng rất khác đó là bình đẳng dừng lại ở lằn ranh – một cách lý giải phi logic ngày nay cũng đang được hầu hết những người ủng hộ một quan niệm rất khác về bình đẳng áp dụng.
BÌNH ĐẲNG VỀ KẾT QUẢ
Cách hiểu khác về khái niệm “bình đẳng” này, bình đẳng về kết quả, đã và đang có cơ sở trong thế kỷ này. Trước hết nó đã ảnh hưởng đến chính sách nhà nước của Vương quốc Anh và trên lục địa Châu Âu. Trong nửa thế kỷ qua, nó đã ngày càng ảnh hưởng đến chính sách của chính phủ ở Hoa Kỳ. Với một bộ phận của giới trí thức, mong muốn bình đẳng về kết quả đã trở thành một tín ngưỡng tôn giáo: tất cả mọi người nên hoàn thành cuộc đua cùng một lúc. Như Dodo đã nói trong Alice in Wonderland, “Mọi người đều đã chiến thắng và tất cả đều phải có giải thưởng.”
Đối với quan niệm này về bình đẳng, cũng như đối với hai quan niệm đã trình bày trên kia, bình đẳng không được hiểu theo nghĩa đen là giống hệt nhau. Không ai thực sự khẳng định rằng tất cả mọi người, bất kể tuổi tác, giới tính hay các thuộc tính thể chất khác, nên có khẩu phần giống nhau cho từng loại thực phẩm, quần áo riêng biệt, v.v. Mục tiêu là sự công bằng, một khái niệm mơ hồ hơn nhiều — thực sự, một điều mà rất khó, nếu không muốn nói là không thể, để xác định chính xác. “Chia sẻ công bằng cho tất cả mọi người” là khẩu hiệu hiện đại đã thay thế cho khẩu hiệu của Karl Marx xưa kia, “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
Khái niệm “bình đẳng” này hoàn toàn khác với hai khái niệm “bình đẳng” đã nêu. Nếu các biện pháp của chính phủ nhằm thúc đẩy bình đẳng cá nhân hoặc bình đẳng về cơ hội sẽ nâng cao quyền tự do; thì các biện pháp của chính phủ để đạt được chia sẻ công bằng cho tất cả mọi người lại sẽ làm giảm tự do. Nếu những gì mọi người nhận được là do sự công bằng quyết định, thì ai sẽ là người quyết định điều gì là công bằng? Như một điệp khúc của Dodo, “Nhưng ai là người trao giải?”
Công bằng không phải là một khái niệm được xác định một cách khách quan khi nó xa rời căn tính con người. Công bằng, giống như nhu cầu, là nằm trong con mắt đánh giá chủ quan của mỗi người. Nếu tất cả đều có phần công bằng, ai đó hoặc một số nhóm người phải quyết định cái gì, như thế nào là công bằng — và họ phải có khả năng áp đặt quyết định của mình lên những người khác, lấy từ những người có nhiều hơn phần công bằng của họ và chia cho những người có ít hơn. Những người đưa ra và áp đặt các quyết định đó có bình đẳng với những người mà họ quyết định không? Chẳng lẽ chúng ta không phải đang ở trong Trại Súc vật của George Orwell, nơi “tất cả các loài động vật đều bình đẳng, nhưng một số loài động vật bình đẳng hơn những loài vật khác” hay sao?
Ngoài ra, nếu những gì mọi người được nhận sẽ được quyết định bởi sự công bằng chứ không phải bởi những gì họ làm ra, thì các phần thưởng sẽ đến từ đâu? Đâu là động lực để người ta làm việc và tạo ra thành quả? Dựa vào đâu để quyết định ai là bác sĩ, ai là luật sư, ai là người thu gom rác, ai là người quét đường? Điều gì đảm bảo rằng mọi người sẽ chấp nhận những vai trò được giao cho họ và sau đó thực hiện những vai trò đó phù hợp với khả năng của họ? Rõ ràng, chỉ có vũ lực hoặc đe dọa vũ lực mới có tác dụng.
Điểm mấu chốt không chỉ đơn thuần là việc thực hành sẽ rất xa với lý tưởng. Tất nhiên, điều đó cũng sẽ xảy ra đối với hai quan niệm khác đã nêu về bình đẳng. Vấn đề là có một mâu thuẫn cơ bản giữa lý tưởng chia sẻ công bằng, hay tiền thân của nó, “được hưởng tùy theo nhu cầu của mỗi người” và lý tưởng về tự do cá nhân. Xung đột này đã cản trở mọi nỗ lực nhằm biến sự bình đẳng về kết quả trở thành nguyên tắc hàng đầu của tổ chức xã hội. Kết quả cuối cùng luôn là tình trạng khủng bố: Nga, Trung Quốc và gần đây là Campuchia đã đưa ra bằng chứng rõ ràng và thuyết phục. Và ngay cả sự khủng bố cũng không thể cân bằng kết quả. Trong mọi trường hợp, bất bình đẳng diện rộng vẫn tồn tại cho dù chúng ta đánh giá theo bất kỳ tiêu chí nào; bất bình đẳng giữa kẻ thống trị và kẻ bị trị, không chỉ về quyền lực mà còn về tiêu chuẩn vật chất của cuộc sống.
Các biện pháp ít cực đoan hơn đã được thực hiện ở các nước phương Tây với danh nghĩa bình đẳng về kết quả cũng chịu chung số phận ở mức độ thấp hơn. Họ cũng hạn chế quyền tự do cá nhân. Họ cũng đã không đạt được mục tiêu của mình. Điều đã được chứng minh là không thể định nghĩa chia sẻ công bằng theo cách nói chung có thể chấp nhận được hoặc không có cách nào để làm hài lòng mọi thành viên của cộng đồng rằng họ đang được đối xử công bằng. Trái lại, sự không hài lòng lại gắn liền với mọi nỗ lực bổ sung nhằm thực hiện bình đẳng về kết quả.
Phần lớn sự nhiệt thành về mặt đạo đức đằng sau động lực bình đẳng kết quả xuất phát từ niềm tin phổ biến rằng thật không công bằng khi một số trẻ em có lợi thế lớn hơn những đứa trẻ khác chỉ đơn giản là vì chúng có cha mẹ giàu có. Tất nhiên là không công bằng. Tuy nhiên, sự không công bằng có thể có nhiều hình thức. Nó có thể ở dạng thừa kế tài sản — trái phiếu và cổ phiếu, nhà cửa, nhà máy; nó cũng có thể ở dạng kế thừa tài năng — khả năng âm nhạc, sức mạnh, thiên tài toán học. Việc thừa kế tài sản có thể bị can thiệp dễ dàng hơn việc thừa kế tài năng. Nhưng từ quan điểm đạo đức, liệu có bất kỳ sự khác biệt nào giữa hai điều này? Thế mà không ít người phẫn nộ vì ai đó được thừa kế tài sản mà không phẫn nộ vì ai đó được thừa kế gien tài năng.
Hãy nhìn nhận vấn đề tương tự theo quan điểm của phụ huynh. Nếu bạn muốn đảm bảo cho con mình một thu nhập cao hơn trong cuộc sống, bạn có thể làm nhiều cách khác nhau. Bạn có thể mua cho con mình một nền giáo dục giúp trang bị những kỹ năng để theo đuổi một nghề nghiệp mang lại thu nhập cao; hoặc bạn có thể đưa con vào làm chủ một doanh nghiệp, một vị trí mang lại thu nhập cao hơn mức con bạn có thể kiếm được khi còn là một người làm công ăn lương; hoặc bạn có thể để lại cho con tài sản, thu nhập từ tài sản đó giúp con bạn sống tốt hơn. Có sự khác biệt nào về đạo đức giữa ba cách sử dụng tài sản nói trên của bạn không? Hoặc hãy nghĩ một lần nữa, nếu nhà nước để lại cho bạn bất kỳ khoản tiền nào để chi tiêu sau khi đã đóng các khoản thuế, liệu nhà nước có nên cho phép bạn chi tiêu cho cuộc sống cuồng loạn của riêng bạn và không để lại gì cho con cái của bạn?
Các vấn đề đạo đức liên quan rất tinh vi và phức tạp. Nó không được giải quyết bằng các công thức đơn giản như là chia sẻ công bằng cho tất cả mọi người. Thật vậy, nếu chúng ta xem xét điều đó một cách nghiêm túc, thì nó có nghĩa là những người trẻ kém kỹ năng âm nhạc nên được đào tạo về âm nhạc nhiều nhất để bù đắp cho những thiệt thòi di truyền của họ và những người có năng khiếu âm nhạc lớn hơn sẽ không được tiếp cận với chương trình đào tạo âm nhạc tốt [để tạo ra thành quả công bằng với những người không có năng khiếu]. Cũng tương tự như vậy đối với các phạm trù phẩm chất cá nhân kế thừa khác. Điều đó có thể công bằng cho những người trẻ thiếu tài năng, nhưng liệu có công bằng cho những người có tài năng đặc biệt, chưa nói đến liệu như thế có công bằng cho những người phải làm việc để nhà nước có tiền trả cho việc đào tạo những người trẻ thiếu tài năng hoặc cho những người bị tước đi những lợi ích có thể đến từ trau dồi tài năng của năng khiếu?
Cuộc sống vốn không công bằng. Ý tưởng cho rằng chính phủ có thể sửa chữa những gì tự nhiên đã sinh ra nghe thật hấp dẫn. Nhưng cũng cần phải nhận ra rằng chúng ta được lợi bao nhiêu từ chính sự bất công mà chúng ta oán trách. Không có gì công bằng về việc Marlene Dietrich được sinh ra với một đôi chân đẹp mà tất cả chúng ta đều muốn ngắm nhìn hoặc về việc Muhammad Ali được sinh ra với kỹ năng khiến anh ta trở thành một chiến binh cừ khôi. Nhưng ở khía cạnh khác, hàng triệu người thích nhìn vào chân của Marlene Dietrich hoặc xem một trong những trận chiến của Muhammad Ali đã được hưởng lợi từ sự không công bằng của thiên nhiên trong việc tạo ra một Marlene Dietrich và một Muhammad Ali. Thế giới sẽ như thế nào nếu mọi người đều là bản sao của những người khác?
Chắc chắn là không công bằng khi Muhammad Ali có thể kiếm được hàng triệu đô la trong một đêm. Nhưng chẳng phải là sẽ còn bất công hơn nữa đối với những người thích xem anh ta nếu, vì theo đuổi một lý tưởng bình đẳng trừu tượng nào đó, Muhammad Ali không được phép kiếm thêm tiền cho một đêm biểu diễn vì như thế anh ta sẽ có nhiều tiền hơn so với số tiền người đàn ông khuân vác nhận được cho một ngày làm việc không có tay nghề trên bến cảng? Tất nhiên có thể làm được như thế, nhưng kết quả sẽ là không ai có cơ hội xem Muhammad Ali biểu diễn. Chúng tôi rất nghi ngờ rằng liệu anh ta có sẵn sàng trải qua chế độ tập luyện gian khổ trước khi chiến đấu hay tự mình phải tuân theo kiểu chiến đấu mà anh ta đã có, nếu như anh ta chỉ được trả lương giống như một anh phu khuân vác không có kỹ năng gì đặc biệt.
Vẫn còn một khía cạnh khác của vấn đề công bằng phức tạp này có thể được minh họa bằng cách xem xét một trò chơi may rủi, ví dụ, hãy xem một buổi tối tại trò chơi baccarat. Mọi tay chơi có thể bắt đầu buổi tối với số lượng chip bằng nhau, nhưng khi trò chơi tiếp tục, do kỹ năng chơi và do may rủi số tiền mỗi người đạt được sẽ trở nên không bằng nhau. Khi kết thúc, một số người sẽ thắng lớn, một số khác thì thua lớn. Nhân danh lý tưởng bình đẳng, liệu những người chiến thắng có nên trả lại cho những người thua cuộc không? Điều đó sẽ làm mất đi tất cả niềm vui của trò chơi. Ngay cả những người thua cuộc cũng không thích điều đó. Họ có thể thích nó vào một lúc nào đó, nhưng liệu họ có quay lại chơi nữa không nếu họ biết rằng, dù có chuyện gì xảy ra, họ sẽ kết thúc chính xác nơi họ bắt đầu?
Ví dụ này có nhiều điều liên quan đến thế giới thực hơn là người ta tưởng. Mỗi ngày, mỗi người chúng ta đều đưa ra quyết định liên quan đến việc nắm lấy cơ hội. Đôi khi đó là một cơ hội lớn – như khi chúng ta quyết định theo đuổi nghề gì, lấy ai, mua nhà hay đầu tư lớn. Thường thì đó là một cơ hội nhỏ, như khi chúng ta quyết định xem bộ phim nào, có băng qua đường ngược chiều với dòng xe cộ hay không, có nên mua cổ phiếu này hay là mua một cổ phiếu khác hay không. Mỗi lần như thế, câu hỏi đặt ra là, ai sẽ là người quyết định xem chúng ta có những cơ hội nào? Điều đó lại phụ thuộc vào việc ai là người gánh chịu hậu quả của quyết định. Nếu chúng ta chịu hậu quả, chúng ta có thể đưa ra quyết định. Nhưng nếu người khác gánh chịu hậu quả, chúng ta có nên hay không được phép đưa ra quyết định? Nếu bạn chơi baccarat với tư cách là đại diện cho người khác bằng tiền của anh ta, liệu anh ta có cho phép bạn ra quyết định trong phạm vi không giới hạn? Có phải là anh ta gần như chắc chắn sẽ đặt ra một số giới hạn cho quyết định của bạn? Lẽ nào anh ta sẽ không đặt ra một số quy tắc để bạn tuân theo?
Lấy một ví dụ rất khác, nếu chính phủ (tức là những người sử dụng tiền đóng thuế của bạn) chịu chi phí thiệt hại do lũ lụt gây ra cho ngôi nhà của bạn, bạn có được phép tự do quyết định xem có nên xây dựng ngôi nhà của mình trên vùng ngập lụt không? Không phải ngẫu nhiên mà sự can thiệp ngày càng tăng của chính phủ vào các quyết định cá nhân lại đi đôi với động lực chia sẻ công bằng cho tất cả mọi người.
Một hệ thống xã hội trong đó mọi người có thể đưa ra lựa chọn của riêng mình – và gánh chịu hầu hết hậu quả từ các quyết định của họ – là hệ thống đã phổ biến trong hầu hết lịch sử của chúng ta. Đó là hệ thống đã tạo ra động lực cho những người như Henry Fords, Thomas Alva Edisons, George Eastmans, John D. Rockefellers, James Cash Penneys để biến đổi xã hội của chúng ta trong hai thế kỷ qua. Đó là hệ thống đã tạo động lực cho những người khác cung cấp vốn đầu tư mạo hiểm để tài trợ cho các doanh nghiệp mà những nhà phát minh và người đứng đầu ngành đầy tham vọng đã đảm nhận. Tất nhiên, có rất nhiều người thua cuộc trên đường đi – có lẽ nhiều người thua cuộc hơn là người chiến thắng. Chúng ta không nhớ hết tên của họ. Nhưng hầu hết họ đều mở to mắt. Họ biết rằng họ đang nắm lấy cơ hội. Và dù thắng hay thua, toàn xã hội đều được hưởng lợi từ việc họ sẵn sàng nắm bắt cơ hội.
Vận may mà hệ thống này tạo ra phần lớn đến từ việc phát triển các sản phẩm hoặc dịch vụ mới hoặc cách thức sản xuất và phân phối. Kết quả là sự cộng thêm vào sự giàu có của toàn thể cộng đồng, vào sự sung túc của quần chúng nhân dân, gấp nhiều lần sự tích lũy của cải mà những người đổi mới tích lũy được. Henry Ford đã có được một tài sản lớn. Nước Mỹ đã có được một phương tiện giao thông rẻ và đáng tin cậy và các kỹ thuật sản xuất hàng loạt. Hơn nữa, trong nhiều trường hợp, tài sản tư nhân cuối cùng cũng được cống hiến cho lợi ích của xã hội. Các Tổ chức Rockefeller, Ford và Carnegie chỉ là điểm nổi bật nhất trong số rất nhiều lợi ích tư nhân tuyệt vời do hoạt động của một hệ thống tương ứng với “bình đẳng về cơ hội” và “tự do” như những thuật ngữ này đã được hiểu cho đến gần đây .
Một ví dụ nhỏ có thể mang lại cảm nhận rõ cho chúng ta về sự bùng nổ của hoạt động từ thiện trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Trong một cuốn sách dành cho “hoạt động từ thiện văn hóa ở Chicago từ những năm 1880 đến 1917”, Helen Horowitz viết: “Vào thời điểm chuyển giao thế kỷ, Chicago là một thành phố của những xung lực trái ngược nhau: nó vừa là một trung tâm thương mại kinh doanh các mặt hàng cơ bản của một xã hội công nghiệp và một cộng đồng bị cuốn vào làn gió nâng cao văn hóa. Như một nhà bình luận đã nói, thành phố là ‘sự kết hợp kỳ lạ giữa thịt lợn và Plato.’ Một biểu hiện chính của động lực hướng tới văn hóa của Chicago là việc thành lập các tổ chức văn hóa lớn của thành phố vào những năm 1880 và đầu những năm 1890 (Viện Nghệ thuật, Thư viện Newberry, Dàn nhạc Giao hưởng Chicago, Đại học Chicago, Bảo tàng Field, Thư viện Crerar) . . . . Các cơ sở này là một hiện tượng mới trong thành phố. Dù động lực ban đầu đằng sau sự thành lập của họ là gì, họ phần lớn được tổ chức, duy trì và kiểm soát bởi một nhóm doanh nhân. . . . Tuy nhiên, mặc dù do tư nhân hỗ trợ và quản lý, các cơ sở này đã được thiết kế cho toàn thành phố. Những người được ủy thác của họ đã chuyển sang hoạt động từ thiện văn hóa không hẳn chỉ là để đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ cá nhân hoặc học thuật mà còn là hoàn thành các mục tiêu xã hội. Bị xáo trộn bởi các lực lượng xã hội mà họ không thể kiểm soát và chứa đầy những quan niệm duy tâm về văn hóa, những doanh nhân này đã nhìn thấy ở bảo tàng, thư viện, dàn nhạc giao hưởng và trường đại học là một cách để thanh lọc thành phố của họ và tạo ra một thời kỳ phục hưng dân sự. “
Hoạt động từ thiện hoàn toàn không bị giới hạn ở các tổ chức văn hóa. Như Horowitz đã viết trong một mối liên hệ khác, “một dạng bùng nổ hoạt động ở nhiều cấp độ khác nhau”. Và Chicago không phải là một trường hợp cá biệt. Đúng hơn, như Horowitz nói, – “Chicago dường như là hình ảnh thu nhỏ của nước Mỹ.” Cũng trong giai đoạn này, Hull House dưới sự thành lập của Jane Addams, ngôi nhà đầu tiên trong số nhiều ngôi nhà định cư được thành lập trên toàn quốc nhằm truyền bá văn hóa và giáo dục cho người nghèo và hỗ trợ họ trong các vấn đề hàng ngày. Nhiều bệnh viện, trại trẻ mồ côi và các cơ quan từ thiện khác đã được thành lập trong cùng thời kỳ.
Không có sự mâu thuẫn nào giữa hệ thống thị trường tự do và việc theo đuổi các mục tiêu văn hóa và xã hội rộng lớn hoặc giữa hệ thống thị trường tự do và lòng trắc ẩn đối với những người kém may mắn, cho dù lòng trắc ẩn đó có dưới dạng hoạt động từ thiện tư nhân như ở thế kỷ 19 hay không, hoặc, như nó đã được thực hiện ngày càng nhiều trong thế kỷ 20, sự trợ giúp thông qua chính phủ – với điều kiện là trong cả hai trường hợp, đó là biểu hiện của mong muốn giúp đỡ người khác. Tuy nhiên, có sự khác biệt căn bản trên thế giới giữa hai loại hỗ trợ thông qua chính phủ có vẻ bề ngoài giống nhau: thứ nhất, 90 % trong số chúng ta đồng ý áp thuế đối với bản thân để giúp 10 % dưới cùng và thứ hai, 80 % bỏ phiếu đòi áp thuế đối với 10 phần trăm thu nhập cao nhất để giúp 10 phần trăm thu nhập dưới cùng — Đây là ví dụ nổi tiếng của William Graham Sumner về việc B và C quyết định xem D sẽ làm gì cho A. Cách thứ nhất có thể là khôn ngoan hoặc không khôn ngoan, có thể là một cách hiệu quả hoặc không hiệu quả để giúp những người thua thiệt trong xã hội — nhưng nó phù hợp với niềm tin vào cả bình đẳng cơ hội và tự do. Cách thứ hai là cách tìm kiếm sự bình đẳng về kết quả và hoàn toàn trái ngược với tự do.
AI ỦNG HỘ BÌNH ĐẲNG VỀ KẾT QUẢ?
Có rất ít sự ủng hộ đối với mục tiêu bình đẳng về kết quả mặc dù nó đã trở thành gần như một điều khoản như kiểu đức tin tôn giáo trong giới trí thức, và bất chấp ý tưởng đó nổi bật như thế nào trong phát biểu của các chính trị gia hay trong lời mở đầu của các văn bản pháp luật. Những thứ đó đều đã thất bại như nhau bởi cách hành xử của chính phủ, của những trí thức, những người nhiệt tình ủng hộ bình đẳng, và của công chúng nói chung.
Đối với chính phủ, một ví dụ rõ ràng là chính sách đối với xổ số và cờ bạc. Bang New York — và đặc biệt là Thành phố New York — được coi là thành trì của chủ nghĩa bình quân (ai cũng được hưởng như nhau). Tuy nhiên, chính quyền Bang New York vẫn tiến hành dịch vụ xổ số và cung cấp phương tiện để cá cược bên ngoài các cuộc đua. Nó quảng cáo rộng rãi để lôi kéo người dân mua vé số và đặt cược vào kết quả — với điều kiện mang lại lợi nhuận rất lớn cho chính phủ. Đồng thời, chính phủ cũng cố gắng ngăn chặn những trò chơi may rủi khác do tư nhân tổ chức, nếu nó có tỷ lệ cá cược dễ ăn hơn so với xổ số của chính phủ (đặc biệt là khi tính đến việc dễ dàng tránh thuế hơn đối với tiền thắng cược do chính phủ tổ chức). Vương quốc Anh, một thành trì, nếu không phải là nơi sinh ra, của chủ nghĩa bình quân, cho phép các câu lạc bộ cờ bạc tư nhân và cá cược với các cuộc đua và các sự kiện thể thao khác. Thật vậy, cá cược là một trò tiêu khiển quốc gia và là một nguồn thu nhập chính của chính phủ.
Đối với giới trí thức, bằng chứng rõ ràng nhất là việc họ không thực hành những gì mà rất nhiều người trong số họ rao giảng. Bình đẳng về kết quả có thể được thúc đẩy trên một nền tảng do mỗi người tự thực hiện. Trước hết, hãy quyết định chính xác ý bạn là bình đẳng. Bạn có muốn đạt được bình đẳng ở Hoa Kỳ không? trong một nhóm các quốc gia được chọn nói chung? trong thế giới nói chung? Có phải bình đẳng được đánh giá về thu nhập mỗi người, mỗi gia đình, mỗi năm, mỗi thập kỷ, mỗi cuộc đời, thu nhập chỉ dưới dạng tiền không? Hoặc bao gồm các khoản phi tiền tệ như giá trị cho thuê của một ngôi nhà thuộc sở hữu của mình; thực phẩm được trồng để sử dụng riêng của mình; các dịch vụ được cung cấp bởi các thành viên trong gia đình không phải làm việc vì tiền, đặc biệt là nội trợ? Những khuyết tật hoặc lợi thế về thể chất và tinh thần được cho phép như thế nào?
Tuy nhiên bạn quyết định những vấn đề này, bạn có thể, nếu bạn là một người theo chủ nghĩa bình quân, hãy ước tính thu nhập từ tiền nào sẽ tương ứng với khái niệm bình đẳng của bạn. Nếu thu nhập thực tế của bạn cao hơn mức đó, bạn có thể giữ số tiền đó và phân phối phần còn lại cho những người thấp hơn mức đó. Nếu tiêu chí của bạn là bao trùm thế giới — như hầu hết các nhà hùng biện về chủ nghĩa bình quân cho rằng nên làm— một cái gì đó ít hơn, chẳng hạn, 2000 đô la một năm (ví dụ thế) cho mỗi người sẽ là một số tiền tương ứng với quan niệm bình đẳng dường như tiềm ẩn trong hầu hết hùng biện bình đẳng. Đó là về thu nhập bình quân của mỗi người trên toàn thế giới.
Đó là những người mà Irving Kristol đã gọi là “giai cấp mới” —các quan chức chính phủ, các học giả có nghiên cứu được hỗ trợ bởi quỹ chính phủ hoặc những người làm việc trong các tổ chức tư vấn do chính phủ tài trợ, nhân viên của nhiều nhóm được gọi là nghiên cứu lợi ích công hoặc chính sách công, nhà báo và những người khác trong lĩnh vực truyền thông – công nghiệp – là một trong những người rao giảng nhiệt tình nhất về học thuyết bình đẳng. Tuy nhiên, họ nhắc nhở chúng ta rất nhiều về một điều đã cũ, nếu không nói là bất công, mà chúng ta đã thấy về Quakers: “Họ đến Thế giới mới để làm điều tốt và cuối cùng đã làm tốt.” Các thành viên của giai cấp mới này nói chung là những người được trả lương cao nhất trong cộng đồng. Và đối với nhiều người trong số họ, việc rao giảng sự bình đẳng và thúc đẩy hoặc quản lý luật lệ đã chứng minh là một phương tiện hữu hiệu để đạt được thu nhập cao như vậy. Tất cả chúng ta đều dễ dàng nhận thấy phúc lợi của bản thân so với phúc lợi của cộng đồng.
Tất nhiên, một người theo chủ nghĩa bình đẳng có thể phản đối rằng anh ta chỉ là một giọt nước trong đại dương, rằng anh ta sẽ sẵn sàng phân phối lại phần thu nhập vượt mức của mình so với quan niệm của anh ta về thu nhập bình đẳng nếu tất cả mọi người khác cũng bị buộc phải làm như vậy. Ở một mức độ nào đó, điều này cho rằng sự ép buộc sẽ giúp thay đổi vấn đề là một cách làm sai lầm; ngay cả khi mọi người đều làm như vậy, thì đóng góp cụ thể của một người vào thu nhập của những người khác vẫn sẽ là một sự sụt giảm trong đại dương. Sự đóng góp của cá nhân một người sẽ lớn hơn nếu anh ta là người đóng góp duy nhất với tư cách là một trong nhiều người. Thật vậy, cách làm này sẽ mang lại giá trị lớn hơn vì anh ta có thể nhắm mục tiêu đóng góp của mình vào việc giúp những người thiệt thòi nhất mà anh ta coi là người nhận phù hợp. Ở một cấp độ khác, sự ép buộc sẽ thay đổi vấn đề một cách đáng kể; nếu các hành vi phân phối lại là tự nguyện hoàn toàn, nó sẽ tạo ra một kiểu xã hội hoàn toàn khác so với kiểu xã hội sẽ xuất hiện nếu việc phân phối lại là bắt buộc — và theo tiêu chuẩn của chúng tôi, kiểu xã hội thứ nhất là vô cùng thích hợp.
Những người tin rằng một xã hội bình đẳng được thực thi là thích hợp hơn cũng có thể thực hành những gì họ rao giảng. Họ có thể tham gia vào một trong nhiều cộng đồng/đơn vị địa phương/công xã ở quốc gia này và nơi khác hoặc thành lập các làng xã mới. Và, tất nhiên, nó hoàn toàn phù hợp với niềm tin về bình đẳng cá nhân hoặc bình đẳng về cơ hội và tự do mà bất kỳ nhóm cá nhân nào muốn sống theo cách đó nên được tự do làm như vậy. Luận điểm của chúng tôi ủng hộ bình đẳng kết quả sâu sắc nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ một số ít người muốn tham gia các đơn vị xã hội như vậy và từ sự mong manh của những đơn vị đã được thành lập.
Những người theo chủ nghĩa bình quân ở Hoa Kỳ có thể phản đối rằng số ít các công xã và sự mong manh của chúng phản ánh sự ngột ngạt mà một xã hội chủ yếu là tư bản gây ra đối với các xã đó và dẫn đến sự phân biệt đối xử mà họ phải chịu. Điều đó có thể đúng với Hoa Kỳ nhưng như Robert Nozick đã chỉ ra, có một quốc gia mà điều đó không đúng, ngược lại, các công xã bình đẳng lại được đánh giá cao và coi trọng. Đất nước đó là Israel. Các kibbutz đã đóng một vai trò quan trọng trong việc định cư ban đầu của người Do Thái ở Palestine và tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong nhà nước Israel. Một phần đáng kể các nhà lãnh đạo của nhà nước Israel là xuất thân từ kibbutzim. Điều này không hề là lý do cho việc bị từ chối tư cách lãnh đạo, trái lại, tư cách thành viên trong kibbutz mang lại địa vị xã hội cao và được xem là một mệnh lệnh cho người khác về sự chấp thuận. Mọi người đều có thể tự do tham gia hoặc rời khỏi kibbutz, và kibbutzim đã là những tổ chức xã hội khả thi. Tuy nhiên, chưa bao giờ, và chắc chắn không phải ngày nay, có hơn 5 phần trăm dân số Do Thái của Israel được chọn làm thành viên của một kibbutz. Tỷ lệ phần trăm đó có thể được coi là một ước tính cao hơn của phần số người sẽ tự nguyện chọn một hệ thống thực thi bình đẳng về kết quả thay vì một hệ thống có đặc điểm là bất bình đẳng, đa dạng và cơ hội.
Thái độ của công chúng về thuế thu nhập lũy tiến còn trái chiều hơn. Các cuộc trưng cầu dân ý gần đây về việc áp dụng thuế thu nhập lũy tiến ở một số tiểu bang vốn không có loại thuế này, và về việc gia tăng mức độ lũy tiến ở các tiểu bang khác, nói chung đã thất bại. Mặt khác, thuế thu nhập liên bang được đánh giá cao, ít nhất là trên giấy tờ, mặc dù nó cũng chứa một số lượng lớn các điều khoản (kẽ hở) làm giảm đáng kể mức độ lũy tiến trong thực tế. Điều này cho thấy, ít nhất công chúng chấp nhận một lượng thuế phân phối lại vừa phải.
Tuy nhiên, chúng tôi mạo hiểm đề xuất rằng sự nổi tiếng của Reno, Las Vegas và bây giờ là Thành phố Đại Tây Dương là dấu hiệu không kém phần trung thực cho thấy công chúng ưa thích nó hơn nhiều so với thuế thu nhập liên bang, các bài xã luận trên New York Times và Washington Post, hay các trang của New York Review of Books.
HẬU QUẢ CỦA CÁC CHÍNH SÁCH BÌNH ĐẲNG
Trong việc định hình chính sách của mình, chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm của các nước phương Tây, nơi chúng ta có chung nền tảng văn hóa và tri thức và từ đó có thể đúc kết được nhiều giá trị của mình. Có lẽ ví dụ điển hình nhất là Vương quốc Anh, quốc gia đã dẫn đầu trong thế kỷ 19 về việc thực hiện bình đẳng về cơ hội và trong thế kỷ 20 về việc thực hiện bình đẳng về kết quả.
Kể từ khi Thế chiến thứ hai kết thúc , chính sách đối nội của Anh đã bị chi phối bởi việc tìm kiếm sự bình đẳng hơn về kết quả. Hết biện pháp này tới biện pháp khác đã được áp dụng để lấy từ người giàu và chia cho người nghèo. Thuế đã được tăng lên đối với thu nhập cho đến khi chúng đạt tỷ lệ cao nhất là 98 % đối với thu nhập bất động sản và 83 % đối với thu nhập kiếm được và được bổ sung bằng các loại thuế ngày càng cao đối với tài sản thừa kế. Các dịch vụ y tế, nhà ở và phúc lợi khác do nhà nước cung cấp đã được mở rộng đáng kể, cùng với việc chi trả cho người thất nghiệp và người già. Thật không may, kết quả rất khác so với kết quả người ta dự định. “Người ta”, tức là những người đã bị xúc phạm bởi cái cấu trúc giai cấp đã thống trị nước Anh trong nhiều thế kỷ. Đã có sự phân phối lại rất lớn về của cải, nhưng kết quả cuối cùng lại không phải là sự phân phối công bằng.
Thay vào đó, các giai cấp đặc quyền mới đã được tạo ra để thay thế hoặc bổ sung cho lớp cũ: giới quan chức, được bảo đảm an toàn về việc làm, được bảo vệ chống lại lạm phát cả khi họ đi làm và khi nghỉ hưu; giới công đoàn tuyên bố đại diện cho những người lao động bị áp bức nhất nhưng trên thực tế lại là những người được trả lương cao nhất trong nước – họ là những quý tộc của phong trào lao động; các triệu phú mới — những người thông minh nhất trong việc tìm ra các cách xoay quanh luật pháp, các quy tắc, các quy định được đổ tuôn ra từ Quốc hội và bộ máy hành chính, những người đã tìm đủ cách để tránh nộp thuế đối với thu nhập của họ trong nước và giàu có bằng cách làm ăn ở nước ngoài nhằm né thuế. Một cuộc cải tổ lớn về thu nhập và của cải đã diễn ra, nhưng hầu như không hề có sự công bằng lớn hơn nào đạt được.
Việc thúc đẩy bình đẳng ở Anh đã thất bại, không phải chỉ vì các biện pháp sai lầm đã được áp dụng, mặc dù một số biện pháp quả có sai lầm không thể nghi ngờ; cũng không phải vì những chính sách đó được quản lý quá kém, mặc dù có một số lĩnh vực chắc chắn là kém; càng không phải vì những người quản lý đã làm sai, mặc dù chắc chắn một số người đã làm sai. Động lực cho sự bình đẳng đã thất bại vì một lý do cơ bản hơn nhiều. Nó đã đi ngược lại một trong những bản năng cơ bản nhất của con người. Theo cách nói của Adam Smith, tình trạng đó là “Nỗ lực đồng đều, liên tục và không gián đoạn của mỗi người nhằm cải thiện tình trạng, điều kiện sống của chính mình” —và, người ta có thể thêm vào đó là tình trạng của con cháu mình. Tình trạng hay điều kiện đó trong câu nói của Smith, tất nhiên, có nghĩa là không chỉ là phúc lợi vật chất, mặc dù chắc chắn vật chất là một thành phần quan trọng. Trong đầu ông có một khái niệm rộng hơn nhiều, một khái niệm bao gồm tất cả các giá trị mà con người – coi trọng, dựa vào đó người ta đánh giá sự thành công của họ – đặc biệt là loại giá trị xã hội đã làm nảy sinh các hoạt động từ thiện trong thế kỷ XIX.
Khi luật pháp cản trở việc theo đuổi giá trị bản thân của mọi người, họ sẽ cố gắng tìm cách giải quyết. Họ sẽ trốn tránh luật pháp, họ sẽ phạm luật, hoặc họ sẽ rời bỏ đất nước. Rất ít người trong chúng ta tin vào một quy tắc đạo đức biện minh cho việc buộc mọi người phải từ bỏ phần lớn những gì họ làm ra để chính phủ dùng nó tài trợ các khoản thanh toán cho những người mà họ không biết, vì những mục đích mà họ có thể không chấp thuận. Khi luật mâu thuẫn với điều mà hầu hết mọi người coi là đạo đức và đúng đắn, họ sẽ vi phạm luật — cho dù luật được ban hành nhân danh một lý tưởng cao đẹp như bình đẳng hay vì lợi ích trần trụi của nhóm này mà thiệt hại cho nhóm khác. Chỉ có nỗi sợ bị trừng phạt, chứ không phải là ý thức về công lý và đạo đức, sẽ dẫn dắt mọi người tuân theo pháp luật.
Khi mọi người bắt đầu vi phạm một bộ luật, sự thiếu tôn trọng luật pháp chắc chắn sẽ lan rộng ra tất cả các luật, ngay cả những luật mà mọi người coi là đạo đức và đúng đắn – luật chống bạo lực, trộm cắp và phá hoại. Khó mà tin nổi một sự thật là sự gia tăng tội phạm thô bạo ở Anh trong những thập kỷ gần đây có thể là một hệ quả của động lực đòi bình đẳng.
Ngoài ra, động lực bình đẳng đó đã khiến một số công dân tài năng nhất, được đào tạo tốt nhất, mạnh mẽ nhất rời khỏi nước Anh, phần lớn là điều này đã đem lại lợi ích cho Hoa Kỳ và các quốc gia khác, nơi đã mang lại cho những người đó cơ hội lớn hơn để sử dụng tài năng của họ. Cuối cùng, ai có thể nghi ngờ tác động của động lực bình đẳng đã có đối với hiệu quả và năng suất? Chắc chắn, đó là một trong những lý do chính khiến tăng trưởng kinh tế ở Anh bị tụt lại so với các nước láng giềng trong lục địa là Hoa Kỳ, Nhật Bản và các quốc gia khác trong vài thập kỷ qua.
Chúng ta ở Hoa Kỳ đã không đi xa như nước Anh trong việc thúc đẩy mục tiêu bình đẳng về kết quả. Tuy nhiên, nhiều hậu quả tương tự đã thể hiện rõ ràng – từ sự thất bại của các biện pháp bình quân để đạt được mục tiêu của chính phủ, đến việc cải tổ việc phân phối của cải mà không có tiêu chuẩn nào có thể được coi là công bằng, sự gia tăng tội phạm, và những ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất và hiệu quả.
CHỦ NGHĨA TƯ BẢN VÀ BÌNH ĐẲNG
Mọi nơi trên thế giới đều có sự bất bình đẳng về thu nhập và sự giàu có. Tình trạng đó xúc phạm hầu hết chúng ta. Rất ít người có thể không xúc động trước sự đối lập giữa sự xa hoa mà một số người được hưởng và sự nghèo khó mà những người khác phải gánh chịu.
Trong thế kỷ qua, một huyền thoại đã dấy lên một niềm tin cho rằng chủ nghĩa tư bản và thị trường tự do — vốn có nghĩa bình đẳng về cơ hội như cách chúng ta hiểu về thuật ngữ đó — đã làm gia tăng sự bất bình đẳng, rằng đó là một hệ thống mà người giàu bóc lột người nghèo.
Không gì có thể đi xa sự thật được hơn thế! Bất cứ nơi nào thị trường tự do được phép hoạt động, bất cứ nơi nào tồn tại sự tiếp cận bình đẳng về cơ hội, con người bình thường đều đã có thể đạt được mức sống chưa từng mơ tới trước đây. Không ở đâu khoảng cách giàu nghèo rộng hơn, không ở đâu giữa người giàu và người nghèo lại nghèo hơn ở những xã hội không cho phép thị trường tự do hoạt động. Điều đó đúng với các xã hội phong kiến như châu Âu thời trung cổ, Ấn Độ trước khi độc lập, và phần lớn ở Nam Mỹ hiện đại, nơi địa vị được thừa kế sẽ quyết định vị thế của một người. Điều này cũng đúng với các xã hội kế hoạch hóa tập trung, như Nga, Trung Quốc hay Ấn Độ kể từ khi độc lập, nơi quyền tiếp cận chính phủ quyết định vị thế của mỗi người. Điều đó vẫn đúng ngay cả khi quy hoạch tập trung được đưa ra, với danh nghĩa bình đẳng, như ở cả ba quốc gia này.
Nga là một quốc gia của hai “nước”: một “nước” của giai cấp đặc quyền, một tầng lớp trên bao gồm các quan chức Đảng Cộng sản, giới công nghệ, và một “nước” khác bao gồm một số lượng lớn những người hiện có cuộc sống tốt hơn chút ít so với ông cụ kỵ của họ.
Tầng lớp thượng lưu tiếp cận với các cửa hàng đặc biệt, trường học đặc biệt, và tất cả các loại xa xỉ; quần chúng thì chỉ được hưởng nhiều hơn chút ít so với những nhu cầu thiết yếu. Chúng tôi nhớ đã hỏi một hướng dẫn viên du lịch ở Moscow về giá cả/chi phí cho một chiếc ô tô lớn mà chúng tôi nhìn thấy và được trả lời rằng “Ồ, những chiếc xe đó không phải để bán; mà chỉ dành cho Bộ Chính trị thôi. ” Một số cuốn sách gần đây của các nhà báo Mỹ ghi lại rất chi tiết sự tương phản giữa cuộc sống đặc quyền của tầng lớp thượng lưu và sự nghèo đói của quần chúng. Thậm chí ở mức độ đơn giản hơn, đáng chú ý là mức lương trung bình của một quản đốc là bội số lớn hơn mức lương trung bình của một công nhân bình thường trong một nhà máy ở Nga so với một nhà máy ở Hoa Kỳ — và chắc chắn anh ta xứng đáng với nó. Rốt cuộc, một quản đốc người Mỹ chỉ phải lo lắng về việc bị sa thải; một quản đốc người Nga còn phải lo lắng thêm về việc bị bắn chết.
Trung Quốc cũng vậy, là một quốc gia có sự khác biệt lớn về thu nhập – giữa thế lực chính trị và phần còn lại; giữa thành phố và nông thôn; giữa một số công nhân ở các thành phố và những người lao động khác. Một sinh viên có hiểu biết về Trung Quốc đã viết rằng “sự bất bình đẳng giữa các vùng giàu và nghèo ở Trung Quốc vào năm 1957 trầm trọng hơn so với bất kỳ quốc gia nào lớn hơn trên thế giới, có lẽ ngoại trừ Brazil”. Anh ta trích lời một học giả khác nói: “Những ví dụ này cho thấy rằng cơ cấu tiền lương công nghiệp của Trung Quốc không có tính bình đẳng hơn bao nhiêu so với các nước khác”. Và anh ta kết luận quan sát của anh về bình đẳng ở Trung Quốc: “Thu nhập của Trung Quốc ngày nay được phân bổ đồng đều ở mức nào? Chắc chắn, nó không bằng Đài Loan hay Hàn Quốc. Mặt khác, phân phối thu nhập ở Trung Quốc rõ ràng là đồng đều hơn so với Brazil hoặc Nam Mỹ. . . . Chúng ta phải kết luận rằng Trung Quốc còn lâu mới trở thành một xã hội hoàn toàn bình đẳng. Trên thực tế, chênh lệch thu nhập ở Trung Quốc có thể lớn hơn một chút so với một số quốc gia thường bị coi là gắn liền với giới tinh hoa ‘phát xít’ và đám đông bị bóc lột. “
Tiến bộ công nghiệp, cải tiến cơ khí và tất cả các kỳ quan vĩ đại của thời kỳ hiện đại có ý nghĩa tương đối ít đối với những người giàu có. Những người giàu có ở Hy Lạp cổ đại sẽ hầu như không được hưởng lợi từ hệ thống ống nước hiện đại: những người hầu đang chạy thay thế nước đang chảy. Truyền hình và đài phát thanh? — những người danh giá của thành Rome có thể thưởng thức các nhạc sĩ và diễn viên hàng đầu trong nhà của họ, có thể nuôi các nghệ sĩ hàng đầu như những thuộc hạ trong nhà. Quần áo may sẵn, siêu thị; tất cả những điều này và nhiều sự phát triển hiện đại khác có thể đã bổ sung ít nhiều vào cuộc sống của họ. Họ sẽ hoan nghênh những cải tiến trong giao thông vận tải và y học, nhưng phần còn lại, những thành tựu vĩ đại của chủ nghĩa tư bản phương Tây chủ yếu chỉ vì lợi ích của người bình thường. Những thành tựu này đã mang lại cho công chúng những tiện nghi mà trước đây chỉ là đặc quyền của những người giàu có và quyền lực.
Năm 1848, John Stuart Mill đã viết: “Cho đến nay, vẫn còn nghi vấn liệu tất cả các phát minh cơ khí được tạo ra có thật sự làm nhẹ đi sự vất vả trong ngày của bất kỳ con người nào hay không. Những tiến bộ đó đã tạo điều kiện xuất hiện ngày càng nhiều nhà sản xuất và kinh doanh tạo ra vận may, sự giàu có, và đồng thời một lượng lớn dân số vẫn sống một cuộc đời cực khổ và tù đày. Những tiến bộ khoa học này đã làm tăng tiện nghi thoải mái cho tầng lớp trung lưu. Nhưng nó vẫn chưa bắt đầu thực hiện những thay đổi lớn lao đó đối với số phận con người, điều mà bản chất và tương lai của khoa học phải đạt được. ”
Ngày nay không ai có thể nói như thế. Bạn có thể đi du lịch từ đầu này sang đầu kia của thế giới công nghiệp hóa và hầu như những người duy nhất bạn thấy tham gia vào công việc nặng nhọc về thể chất là những người làm việc đó vì thể thao. Để tìm ra những người mà sự vất vả cả ngày của họ vẫn chưa được làm nhẹ nhờ phát minh máy móc, bạn phải đến thế giới phi tư bản: đến Nga, Trung Quốc, Ấn Độ hoặc Bangladesh, các vùng của Nam Tư hoặc đến các nước tư bản lạc hậu hơn — tới Châu Phi, Trung Đông , Nam Mỹ và cho đến gần đây là Tây Ban Nha hoặc Ý.
PHẦN KẾT LUẬN
Một xã hội đặt bình đẳng – theo nghĩa bình đẳng về kết quả – lên trước tự do thì sẽ không có cả bình đẳng lẫn tự do. Việc sử dụng vũ lực để đạt được bình đẳng sẽ phá hủy tự do, và vũ lực, được đưa vào vì mục đích tốt, cuối cùng sẽ nằm trong tay những người sử dụng nó để thúc đẩy lợi ích của họ.
Mặt khác, một xã hội đặt ý chí tự do lên hàng đầu, như một sản phẩm phụ của hạnh phúc, cuối cùng sẽ có cả tự do cao hơn lẫn bình đẳng nhiều hơn. Mặc dù là sản phẩm phụ của tự do, bình đẳng nhiều hơn không phải là một sự tình cờ. Một xã hội tự do sẽ giải phóng năng lượng và khả năng của mọi người để theo đuổi các mục tiêu của riêng họ. Nó ngăn cản một số người tùy tiện đàn áp những người khác. Nó không ngăn cản một số người đạt được các vị trí đặc quyền, nhưng chừng nào quyền tự do vẫn được duy trì, nó sẽ ngăn cản các vị trí đặc quyền đó trở thành thể chế hóa; họ phải chịu sự tấn công liên tục của những người có năng lực và tham vọng khác. Tự do có nghĩa là đa dạng nhưng cũng có thể linh động. Nó bảo tồn cơ hội cho những người thiệt thòi hôm nay trở thành đặc quyền của ngày mai và trong quá trình này, nó cho phép hầu hết tất cả mọi người, từ trên xuống dưới, được hưởng một cuộc sống đầy đủ hơn, hoàn thiện hơn và phong phú hơn.
0 Comments