THỊ TRƯỜNG HÓA VÀ THƯƠNG MẠI HÓA TRONG GIÁO DỤC

Phạm Thị Ly
(Bài đăng báo Tuổi trẻ Cuối tuần ngày 9.06.2018 với tiêu đề “Không thể phó mặc GD ĐH cho thị trường”)

 

Đàng sau câu chuyện chuyển “phí” thành “giá”, thực chất là chấm dứt bao cấp của nhà nước, điều chỉnh học phí theo hướng tính đúng, tính đủ, có tích lũy cho các trường ĐH công, là vấn đề thị trường hóa, thương mại hóa giáo dục ĐH. Đây là một chủ đề đã được thảo luận nhiều trong những năm gần đây trên thế giới.

Điều gì đang diễn ra với GDĐH? Các mô hình tài chính đang thay đổi

 Các nước phát triển phương Tây có truyền thống xem GDĐH là lợi ích công, bởi vì đó là cái nôi đào tạo ra tầng lớp tinh hoa có vai trò dẫn dắt sự phát triển của xã hội, cả về chính trị, văn hóa, lẫn kinh tế, khoa học kỹ thuật. Lợi ích mà GD ĐH mang lại cho xã hội được coi là quan trọng hơn so với lợi ích nó mang lại cho cá nhân người học, vì lẽ đó, các nước này coi tài trợ cho ĐH là việc nhà nước phải làm. Tiền thuế của người dân chi trả cho các ĐH sẽ tạo ra những thành quả đột phá mang lại lợi ích cho cả xã hội. Ngày nay, hầu như ai cũng có thể sử dụng những tiện lợi do mạng lưới viễn thông, internet mang lại, đó là ví dụ cho những kết quả mà nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật, tất cả mọi người đều được hưởng lợi.

Tuy nhiên, những thay đổi trong cấu trúc xã hội và kinh tế những thập kỷ gần đây đã tạo ra một bối cảnh khác trước. Trước tiên là hiện tượng đại chúng hóa giáo dục. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật khiến lao động giản đơn đã được chuyển cho máy móc, người lao động phải được đào tạo nhiều hơn để có thể tham gia vào thị trường lao động có kỹ năng. Hệ quả là GD ĐH không còn là đặc quyền của một tầng lớp tinh hoa, và khía cạnh “lợi ích tư” của việc theo học ĐH trở nên nổi bật. Kết quả của việc mở rộng cánh cửa tiếp cận ĐH cho người dân là ngân sách nhà nước không còn đủ sức bao cấp cho các trường như trước nữa, và điều này đang diễn ra ở hầu hết các nước, làm thay đổi một cách rất cơ bản mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường trong lĩnh vực GDĐH.

Ngân sách thu hẹp đã buộc các trường phải dựa vào nguồn thu từ người học. Vì thế mô hình tài chính của các trường ĐH công trên thế giới đã thay đổi mạnh mẽ trong những thập kỷ qua. Điều có thể thấy rõ nhất là quá trình tư nhân hóa hệ thống GD ĐH, tức là mở rộng sự tham gia của tư nhân vào việc phát triển ĐH, tạo ra các trường ĐH tư hoạt động như một doanh nghiệp. Cần mở ngoặc để nói rằng hiện tượng các ĐH tư không vì lợi nhuận và dựa trên nguồn hiến tặng ở Hoa Kỳ là một hiện tượng khá đặc biệt cần được phân tích riêng. Hiện tượng tiếp theo là quá trình đa dạng hóa nguồn tài chính của các trường, công cũng như tư, diễn ra ngày càng mạnh mẽ, đặc biệt là trường công. Từ chỗ chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước cấp, các trường công ngày nay đang phải tăng học phí, mở rộng các nguồn thu từ nghiên cứu khoa học, hợp tác với các doanh nghiệp, chuyển giao công nghệ, tìm kiếm các nguồn lực xã hội khác như các nguồn hiến tặng, hoặc phát triển các doanh nghiệp spin-off, mở rộng đào tạo xuyên biên giới.

Đó là bối cảnh và là tiền đề cho hiện tượng thị trường hóa và thương mại hóa GDĐH. Hiện tượng này đã bắt đầu từ thập kỷ 80, và không ngừng tiếp tục. Thị trường hóa GDĐH (marketization of higher education) được Brown định nghĩa là “những hành động nhằm đưa ra việc cung ứng GDĐH trên nền tảng thị trường, tức quan hệ cung cầu giữa việc đào tạo sinh viên với việc nghiên cứu khoa học và các hoạt động khác của nhà trường được cân bằng thông qua cơ chế giá” (Roger Brown, 2015).

Điều này có nghĩa là người học được xem như “khách hàng”, còn nhà trường thì là người cung cấp dịch vụ. Tất nhiên điều đó có những kết quả tích cực, vì nó đòi hỏi nhà trường phải thực hiện tốt hơn trách nhiệm giải trình về việc sử dụng nguồn thu, về kết quả đào tạo, và phải quan tâm nhiều hơn đến nhu cầu của người học.

Thế nhưng, vấn đề là, người học không phải là một “khách hàng” có thể bỏ tiền ra mua dịch vụ giáo dục theo lối mua đứt bán đoạn, kiểu như ta trả tiền và mang chiếc xe về nhà. Giáo dục là một dịch vụ đặc biệt vì khách hàng của nó có vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình tạo ra giá trị. Nhà trường có thể bán bằng, nhưng không bán được kỹ năng, kiến thức, thái độ, giá trị, phẩm chất. Tấm bằng chỉ là đại diện quy ước chứ không phải là bản thân những thứ đó. Vì thế, coi sinh viên như những “khách hàng” sẽ tạo ra hệ lụy là đồng nhất tấm bằng với những giá trị mà nó đại diện, và kết quả là những giá trị đó sẽ có thể phá sản.

Khi các trường hành động theo quy luật của thị trường, biến nhà trường thành một loại tư bản hàn lâm, đặt cán cân thu chi lên trên những cân nhắc về lợi ích công và về sứ mạng thực sự của nhà trường mà xã hội mong đợi, chúng ta sẽ thấy một hiện tượng được gọi là thương mại hóa giáo dục: sản phẩm giáo dục được đóng gói trong tấm bằng ĐH, được tiếp thị, rao bán như mọi hàng hóa dịch vụ khác, và các trường thì cạnh tranh để giành thị phần, vì quy mô thị phần đồng nghĩa với lợi nhuận.

Lợi hay hại? Vai trò của nhà nước

 Những người ủng hộ xu hướng thị trường hóa/thương mại hóa GD ĐH cho rằng đó là con đường không thể tránh khỏi trong bối cảnh nguồn tài trợ công không đủ đáp ứng cho nhu cầu phát triển của các trường. Họ tin vào sức mạnh của thị trường và cho rằng nguyên tắc cạnh tranh tự do sẽ giúp các trường hoạt động có hiệu quả hơn. Hệ thống tài chính và kinh tế toàn cầu ngày nay vận hành trên cơ sở tự do giao thương, với rất ít sự can thiệp của nhà nước. Vốn liếng của các trường ĐH và sản phẩm mà họ tạo ra chính là nguồn lực con người. Nguồn lực đó có thể và cần được định giá để có thể đem ra trao đổi, tương tự như những thông tin, hàng hóa, dịch vụ khác. Quá trình trao đổi này tạo ra cơ hội và giá trị mới cho các bên tham gia.

Không còn nghi ngờ gì, là những nguyên tắc có tính chất thị trường có thể kích thích năng suất và sự phát triển. Một giảng viên có năng suất nghiên cứu tốt hơn phải được hưởng lương cao hơn chẳng hạn. Tuy nhiên, điều oái oăm là, điều này không phải bao giờ cũng đúng. Stephen Buranyi từng nói về Fred Sanger, cha đẻ của học thuyết di truyền phân tử như sau: “Trong hệ thống ngày nay, ông ấy hẳn đã có thể bị đuổi cổ khỏi trường đại học của ông rồi!”.  Đó là vì Fred Sanger có rất ít công bố khoa học trong hai thập kỷ giữa hai lần được giải Nobel của ông, năm 1958 và 1980. Nếu các trường áp dụng triệt để nguyên tắc thị trường, có thể chúng ta đến giờ vẫn chưa biết di truyền phân tử là gì, và hàng vạn phát minh dựa trên học thuyết ấy có thể đã không bao giờ có.

Việc coi sinh viên như một khách hàng thuần túy sẽ dẫn tới chỗ các trường chiều theo ý muốn nhất thời của họ để thu hút thêm nhiều người học. Trong một thị trường lao động còn chưa thực sự trưởng thành, bằng cấp vẫn còn là món hàng có giá, sinh viên muốn học thật ít, có bằng thật nhanh. Nhà trường cũng muốn giảm chi phí đào tạo. Hai bên cùng “có lợi”, và kết cục là tấm bằng ĐH lạm phát, trở nên vô giá trị, khiến thật giả lẫn lộn khó phân, còn thị trường GD ĐH thì trở nên méo mó.

Vì thị trường hoạt động dựa trên động lực tìm kiếm lợi nhuận, không có gì ngăn cản các trường tăng học phí tới mức sẽ chỉ còn một số ít người có thể theo đuổi bậc ĐH, tạo ra hố sâu ngăn cách ngày càng lớn giữa người giàu và người nghèo, bởi càng thiếu học, cơ hội thay đổi cuộc đời càng thấp, đói nghèo sẽ truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trên bình diện quốc gia, nếu đa số người dân không tiếp cận được GDĐH, thì số lượng và chất lượng của lực lượng lao động có kỹ năng chắc chắn sẽ giảm sút, kéo theo sự lạc hậu về khoa học kỹ thuật và thua thiệt trong cạnh tranh kinh tế toàn cầu.

Bởi lẽ đó, giới nghiên cứu quốc tế, dù còn tranh cãi nhiều điểm, cũng đều thống nhất rằng thị trường GD ĐH, khác với mọi thị trường khác, cần có vai trò quan trọng của nhà nước.

Nhà nước không phải là một “ông chủ” nắm quyền sở hữu một loạt các trường công tương tự như những “ông chủ” tư nhân nắm quyền sở hữu các trường ĐH tư. Giao cho các trường công tính đúng, tính đủ chi phí và có lợi nhuận hợp lý chính là đối xử với các trường công giống hệt như các trường tư và nhà nước đóng vai trò ông chủ của các trường này. Trong trường hợp đó chúng ta sẽ có một hệ thống GD ĐH được thị trường hóa hoàn toàn, còn vai trò nhà nước thì gần như bằng không. Đó không phải là một lựa chọn đáng khuyến khích.

Vai trò của nhà nước là thiết lập các chính sách để tạo ra một hệ thống đa dạng nhằm phục vụ nhu cầu đa dạng của xã hội. Trong hệ thống đó, trường công được duy trì là để khắc phục những nhược điểm, bù đắp những thiếu sót của trường tư, vốn là kết quả tất yếu của kinh tế thị trường. Tài trợ cho nghiên cứu cơ bản, đào tạo những ngành có ít người học, tập trung cho sứ mệnh phục vụ lợi ích công, cho những hoạt động làm giảm nhẹ bất công, bất bình đẳng trong cơ hội tiếp cận ĐH, những thứ đó cần phải là ưu tiên của trường công, bởi vì trường công sử dụng nguồn lực công và tiền thuế của người dân. Trường công cần phải thu học phí ở mức thích hợp, phần là để giảm nhẹ gánh nặng ngân sách vốn không đủ khả năng đáp ứng, phần là vì, thực tế cho thấy, bao cấp thường dẫn tới kết quả tiêu cực. Người học cần phải đóng học phí để hiểu rõ giá trị của sự học và để nhà trường có thể cải thiện chất lượng. Nhưng học phí phải đi cùng với một chính sách cho vay và hỗ trợ để nó không phải là rào cản cho bất cứ ai có năng lực và quyết tâm. Tất cả những điều này sẽ khó lòng trở thành hiện thực, nếu các trường công bị đẩy vào thị trường và bị buộc phải hành xử theo các động lực thị trường thuần túy.

Đối với giáo dục phổ thông, Công ước Quốc tế về Quyền Trẻ em năm 1989 của Liên hiệp quốc coi giáo dục là một quyền con người cơ bản của trẻ em. Thế nhưng quyền này có thể không thực hiện được khi giáo dục thuần túy là một thị trường, vì thị trường nghĩa là thuận mua vừa bán, mà chắc chắn nước nào cũng có những đứa trẻ không đủ tiền để đi học. Vì thế hầu hết các nước đều thực hiện miễn phí đối với giáo dục phổ thông, nhiều nước còn coi việc cho trẻ đi học là nghĩa vụ bắt buộc đối với cha mẹ hay người giám hộ. Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và nước thứ 2 trên thế giới phê chuẩn Công ước này vào ngày 20 tháng 2 năm 1990. Hiến pháp Việt Nam 2013 cũng bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không thu học phí. Với giáo dục trung học thì từng bước phổ cập; với giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp thì thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý (Điều 61).

Thị trường chỉ quan tâm đến lợi nhuận, vì thế nó chỉ hướng tới phục vụ cho những người có tiền để chi trả. Vùng sâu, vùng xa, vùng núi rừng, hải đảo, ít dân hoặc dân quá nghèo, chắc chắn kinh doanh giáo dục không có lãi, nếu giao cho thị trường và không có sự can thiệp của nhà nước, ngu dốt và đói nghèo sẽ truyền từ đời này sang đời khác ở những nơi như thế.