HAI VẤN ĐỀ CỐT LÕI CỦA ĐẠI HỌC TƯ: QUYỀN SỞ HỮU VÀ MINH BẠCH THÔNG TIN

Phạm Thị Ly

Bài đăng báo Tuổi trẻ Cuối Tuần ngày 26.1.2018 tiêu đề “Vẫn nhức nhối Quyển Sở hữu và Minh bạch thông tin”

Tầm quan trọng của ĐH tư trong việc đáp ứng nhu cầu học tập của người dân là điều đã được ghi nhận rộng rãi  (Kwiek, M. 2007, Kinser et al. 2010), nhất là ở những nước đang trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam, khi nhu cầu đào tạo bậc cao thì ngày càng lớn, mà khả năng đáp ứng của khu vực công thì có hạn (Daniel Levy 2012/2015).

Đóng góp của ĐH tư cho sự phát triển của hệ thống GD ĐH không phải chỉ ở chỗ chia sẻ gánh nặng của ngân sách, mà còn là ở chỗ làm cho hệ thống trở thành đa dạng và đáp ứng được những nhu cầu đa dạng hơn của người học (Teixeira 2001). ĐH tư thục về bản chất là hướng tới thị trường và phục vụ nhu cầu của thị trường. Chính vì thế, ĐH tư nhanh nhạy hơn, linh hoạt hơn, đáp ứng tốt hơn với những đòi hỏi thay đổi thường xuyên của thị trường. Đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa, các trường ĐH trong nước không phải chỉ cạnh tranh với nhau mà còn với các trường trong khu vực và trên thế giới. Thêm nữa, trong bối cảnh tiến bộ công nghệ diễn ra rất nhanh tạo thành một tương lai khó dự đoán, thì bản chất linh hoạt của ĐH tư càng trở nên một ưu điểm quan trọng.

Nhờ những đặc điểm ấy, các ĐH tư đã nhanh chóng cải thiện cơ sở vật chất, chương trình đào tạo để thu hút người học. Động lực thị trường là động lực mạnh mẽ nhất đã khiến các trường đa dạng hóa ngành học, tìm kiếm người giỏi, tăng cường quốc tế hóa, nhằm đáp ứng nhu cầu của người học. Đó là những thành tựu không thể phủ nhận.

Tuy nhiên, thực tế là chất lượng của các ĐH tư không đồng đều. Có những trường có tầm nhìn xa, có vốn liếng, và có khả năng đầu tư dài hạn, có thể vươn xa và đạt được những thành tựu đáng kể. Nhưng cũng có những trường không kịp chuyển mình, trở thành yếu thế, không thu hút được người học, cạnh tranh bằng mức học phí thấp, do học phí thấp, không thể đảm bảo chất lượng, và vì chất lượng có vấn đề, uy tín càng thêm giảm sút.

Bối cảnh đó đòi hỏi các nhà làm chính sách phải có những can thiệp cần thiết nhằm tạo điều kiện cho các trường ĐH tư phát triển lành mạnh và đóng góp tích cực cho cả hệ thống GD ĐH.

VẤN ĐỀ SỞ HỮU ĐỐI VỚI ĐH TƯ

Một trong những nguyên nhân quan trọng đã xói mòn năng lực của một số trường tư trong thời gian qua, là tranh chấp nội bộ. Nguồn gốc sâu xa của các tranh chấp nội bộ này là vấn đề sở hữu.

Vấn đề sở hữu trở nên phức tạp là do hai nguyên nhân. Một là lý do mà lịch sử hình thành GDĐH tư ở Việt Nam sau năm 1975 đã để lại: do các trường ngoài công lập đầu tiên ra đời đều là các trường dân lập và bán công, nguồn vốn vật chất ban đầu của các cá nhân sáng lập thường không lớn. Đóng góp chính của họ thời kỳ đầu là những thứ phi vật chất: chất xám, quan hệ, uy tín. Các trường lớn dần nhờ tài sản tích lũy trong quá trình hoạt động. Thêm vào đó, cơ cấu tổ chức thời đó khiến những người không đóng góp tài sản vật chất cũng có thể giữ những vị trí có tiếng nói quyết định. Vì thế, khi chuyển sang tư thục, tức là từ sở hữu tập thể chuyển thành sở hữu cá nhân, và cả khi đã chuyển thành tư thục, mâu thuẫn quyền lợi giữa các thành viên là khó tránh.

Lý do thứ hai là do bản chất phức tạp của trường ĐH tư với tư cách là điểm giao nhau giữa lợi ích công của xã hội và lợi ích tư của cá nhân, giữa trách nhiệm xã hội của nhà trường và động lực tìm kiếm lợi nhuận của nhà đầu tư, giữa những lợi ích ngắn hạn và dài hạn. Đó là chưa nói tới bối cảnh đặc biệt của Việt Nam, nơi mà chỉ cách đây một hai thập kỷ, giáo dục vẫn là độc quyền của nhà nước, và tư nhân hóa giáo dục có thể gây ra ít nhiều lo ngại về vấn đề ý thức hệ.

Chính sách của Việt Nam đối với GDĐH tư trong gần ba thập kỷ qua không ngừng bị giằng xé giữa những động lực mâu thuẫn ấy. Sở dĩ vấn đề sở hữu có ý nghĩa cốt lõi đối với GD ĐH tư bởi vì nó sẽ có ảnh hưởng tối hậu lên cơ chế ra quyết định của trường, vì thế quyết định cả hướng đi, mục tiêu lẫn cách thức nhà trường đạt được mục tiêu. Hơn thế nữa, nó liên quan trực tiếp đến vấn đề trường vì lợi nhuận (VLN) hay không vì lợi nhuận (KVLN), tức là liên quan đến việc sử dụng nguồn vốn xã hội cho mục tiêu công lợi như thế nào.

Dự thảo sửa đổi Luật GDĐH đang được lấy ý kiến đến nay đã là phiên bản thứ ba (gọi tắt là Dự thảo 3). Cách xử lý của Dự thảo 3 là xem các trường ĐH tư thục VLN[1] hoàn toàn như các doanh nghiệp, thể hiện qua việc coi đại hội đồng cổ đông (chỉ bao gồm tất cả thành viên góp vốn) là cơ quan quyền lực cao nhất của trường ĐH tư thục (Điều 16a). HĐQT của trường ĐH tư thục VLN, mặc dù được định nghĩa là “tổ chức đại diện cho thành viên góp vốn và các bên liên quan” (Điều 17, khoản 2) nhưng thành viên của HĐQT lại chỉ bao gồm thành viên góp vốn (khoản 4). Khoản 6 lại quy định những thành viên không góp vốn thì không biểu quyết những vấn đề tài chính, tài sản. Như vậy, khoản 2, khoản 4 và khoản 6 mâu thuẫn với nhau, nhưng dù vậy, Dự thảo 3 vẫn cho thấy một tinh thần chung là xem các trường VLN hoàn toàn như các doanh nghiệp, nghĩa là người góp vốn được xem là chủ sở hữu và có quyền quyết định cao nhất đối với nhà trường, giống như với các doanh nghiệp.

Đối với ĐH tư KVLN, việc đối xử với nó như một doanh nghiệp được xem là bất cập theo quan niệm truyền thống về ĐH ở phương Tây, vì về bản chất ĐH tư KVLN gần với ĐH công. Dự thảo 3 đã có một số xử lý hợp lý trong việc phân biệt thiết chế tổ chức của trường ĐH tư thục (VLN) và ĐH tư thục KVLN. Ví dụ, khác với HĐQT của trường VLN chỉ gồm thành viên góp vốn, HĐQT của trường KVLN thể hiện rõ tính chất “đại diện của các bên liên quan”, vì thành phần bao gồm cả những người góp vốn, đại diện cho cộng đồng nhà trường, và đại diện cộng đồng xã hội.

Tuy nhiên, không có chỗ nào trong Dự thảo 3 định nghĩa thế nào là ĐH tư thục KVLN, và đặc biệt là không đề cập gì đến vấn đề sở hữu của loại trường này, cũng như những chính sách hỗ trợ cụ thể của nhà nước.   Vấn đề sở hữu có ý nghĩa cốt lõi trong việc phân biệt ĐH tư VLN và KVLN. Sở dĩ cần phân biệt trường VLN và KVLN chính là vì nó nhằm vào mục đích xây dựng những chính sách khác nhau phù hợp với sứ mạng của các loại trường khác nhau. Nếu chính sách đối với các trường KVLN không có ưu đãi gì đặc biệt, thì sự phân biệt VLN/KVLN thực sự không có ý nghĩa gì, ngoài việc xây dựng hình ảnh.

Có nhiều nước không chính thức phân biệt trường VLN/KVLN là do trong thực tế rất khó kiểm soát việc các trường KVLN có thực sự KVLN hay không (Daniel Levy, 2012/2015; Phạm Thị Ly, 2017). Tuy nhiên, đã có sự phân biệt về mặt pháp lý giữa VLN/KVLN thì không thể không đề cập đến một đặc điểm cốt lõi: Trường KVLN là thuộc sở hữu cộng đồng (không phải sở hữu tập thể) còn trường VLN là thuộc sở hữu tư nhân. Phân biệt như vậy là để nguồn vốn xã hội đổ vào các trường KVLN qua hiến tặng, và nguồn ngân sách đổ vào qua các ưu đãi về thuế và đất đai không rơi vào tay của một nhóm cá nhân dưới danh nghĩa phục vụ cộng đồng xã hội.

MINH BẠCH THÔNG TIN

Cách xử lý coi ĐH tư VLN như một doanh nghiệp nhất quán với thực tiễn của nhiều nước và phù hợp với bối cảnh thực tế của Việt Nam. Tuy vậy, trường ĐH là một doanh nghiệp đặc biệt, vì dù được xác lập quyền sở hữu tư nhân, trong thực tế nó vẫn là một tổ chức của nhiều bên liên quan, hình thành và phát triển nhờ sự đóng góp của nhiều bên. Khả năng đóng góp hoặc gây tác hại của nó cũng ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài tới cả xã hội. Vì thế, nếu các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt về minh bạch thông tin, thì trường ĐH tư VLN càng phải tuân thủ nguyên tắc minh bạch hơn thế nữa.

Dựa trên phiên bản sau cùng của Dự thảo 3, thì đã có khá nhiều thay đổi trong khung pháp lý cho ĐH tư theo hướng nới lỏng các quy định về quản trị nội bộ. Rất nhiều vấn đề trước đây được quy định cụ thể trong luật, nay được trao quyền quyết định cho nhà trường, cụ thể là cho phép Quy chế Tổ chức và Hoạt động của Trường được quyết định nhiệm vụ và quyền hạn của ban kiểm soát; số lượng, cơ cấu và tiêu chuẩn thành viên HĐQT; tỉ lệ tài sản mà HĐQT có quyền quyết định không cần thông qua đại hội cổ đông, v.v.

Xu hướng nới lỏng kiểm soát đó nhằm bảo toàn sự linh hoạt của ĐH tư. Tuy nhiên, trong thực tế ĐH tư cũng gây ra nhiều lo ngại về chất lượng, và điều này diễn ra cả ở nhiều nước trên thế giới, không riêng Việt Nam. Đó là vì dịch vụ giáo dục ở bậc ĐH có tính chất bất đối xứng thông tin, thêm vào đó, động cơ tìm kiếm lợi nhuận trong ngắn hạn, tâm lý người học muốn nhanh, nhiều, tốt, rẻ, v.v. những lý do ấy tạo ra chất lượng giáo dục thấp làm xói mòn giá trị của tấm bằng ĐH.

Chính vì thế, các nhà làm chính sách cũng phải hứng chịu áp lực là siết chặt kiểm soát về chất lượng của các trường tư nhằm bảo vệ lợi ích của người học và của xã hội. Tuy nhiên, nếu siết chặt kiểm soát bằng các quy định ngặt nghèo, thì khả năng linh hoạt của các trường sẽ bị tổn hại. Nhiều nước trong khu vực để cho các trường tư tự quyết định những vấn đề quản trị nội bộ, nhà nước chỉ nắm chặt việc bảo vệ chất lượng học thuật thông qua hoạt động kiểm định hoặc các tổ chức/hiệp hội chuyên ngành.

Hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục là lĩnh vực Việt Nam đạt được nhiều tiến bộ nhất trong những năm qua. Bộ tiêu chuẩn kiểm định được xây dựng dựa trên học hỏi kinh nghiệm quốc tế và lực lượng kiểm định viên, chuyên viên đảm bảo chất lượng đã được đào tạo là những điểm son đáng ghi nhận (Harman G. et al. 2010, p.183-196). Tuy nhiên, trong thực tế, chất lượng của hoạt động kiểm định đáng tin cậy tới mức độ nào, và những khuyến nghị của các đoàn kiểm định có thực sự được dùng để cải thiện hoạt động của các trường hay không, vẫn là những vấn đề cần được đặc biệt quan tâm.

Cái có thể cân bằng với việc giảm nhẹ những quy định ngặt nghèo của nhà nước nhằm tăng sự linh hoạt và khả năng đáp ứng của các trường, chính là sự minh bạch về thông tin. Thay cho việc rào chắn những hành vi không được hoan nghênh của các trường, nhà nước chỉ cần tạo ra một cơ chế minh bạch thông tin. Cũng cần chấp nhận rằng trường ĐH tư sẽ phục vụ cho nhu cầu của các tầng lớp khác nhau, với mức thu học phí khác nhau và chất lượng tất nhiên là cũng sẽ khác. Đó là điều bình thường. Nhưng quan trọng là người học, những người bỏ tiền ra mua dịch vụ ở các ĐH tư, có quyền được thông tin đầy đủ và hiểu rõ chất lượng, giá trị của thứ mà mình sẽ mua.

Do tầm quan trọng của GD ĐH tư và do thực tế của Việt Nam những năm qua, cần có một chương riêng trong Luật GD ĐH để xử lý những vấn đề liên quan với ĐH tư, trong đó hai vấn đề cốt lõi là sở hữu và cơ chế minh bạch thông tin. Vấn đề sở hữu là nhằm bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư, là cơ sở để xây dựng thiết chế quản trị nội bộ phù hợp, còn minh bạch thông tin là để bảo vệ lợi ích của người học và của xã hội.

Cùng với một thị trường đa dạng nhiều loại sản phẩm, cùng với khả năng lựa chọn đang tăng lên, người học cũng sẽ phải tỉnh táo hơn, có trách nhiệm hơn với sự lựa chọn của mình. Minh bạch thông tin là công cụ cốt lõi để bảo vệ người học, và thúc đẩy các trường hướng tới chất lượng thực sự và sự phát triển bền vững lâu dài.

Tài liệu tham khảo

 Daniel Levy, 2015. Giáo dục ĐH tư ở Đông Á. Phạm Thị Ly dịch. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. Bản gốc viết năm 2012.

Harman, G., Hayden, M., & Nghi, P. T. (2010). Higher education in Vietnam: reform, challenges and priorities. In Reforming higher education in Vietnam (pp. 1-13). Springer Netherlands.

Kwiek, M. (2007). The European integration of higher education and the role of private higher education. In Private Higher Education in Post-Communist Europe (pp. 119-131). Palgrave Macmillan US.

Kinser, K., Levy, D. C., Casillas, J. C. S., Bernasconi, A., Slantcheva-Durst, S., Otieno, W., … & Lasota, R. (2010). Special Issue: The Global Growth of Private Higher Education. ASHE Higher Education Report, 36(3), 1-158.

Phạm Thị Ly, 2017. Kinh nghiệm quốc tế trong việc xây dựng chính sách pháp luật đối với ĐH tư. Bài viết cho Hội thảo “Kinh nghiệm quốc tế trong việc xây dựng chính sách, pháp luật về tự chủ đại học” do Ủy ban VHGDTNTN &NĐ của Quốc hội tổ chức ngày 25.11.2017 tại Hà Nội). Đọc tại: www.lypham.net

Teixeira, P., & Amaral, A. (2001). Private higher education and diversity: an exploratory survey. Higher Education Quarterly, 55(4), 359-395.

[1] Dự thảo Luật không dùng từ ĐH tư thục vì lợi nhuận, mà chỉ phân biệt ĐH tư thục và ĐH tư thục không vì lợi nhuận. Để tránh nhầm lẫn do logic hình thức (ĐH VLN và KVLN đều là ĐH tư thục), bài này dùng từ ĐH tư VLN khi cần nhằm phân biệt rõ với ĐH tư KVLN.