Nhập khẩu chương trình và sách giáo khoa:

NHỮNG ĐIỀU CẦN THẤY

Châu Phúc (2017)
Bài đăng báo Tuổi trẻ Cuối tuần ngày 10.09.2017

 

Nhập khẩu chương trình và sách giáo khoa không phải là điều gì mới lạ trên thế giới và kể cả ở Việt Nam. Vào những năm 60-65, chương trình giáo dục của Singapore hoàn toàn là nhập khẩu. Chỉ bắt đầu từ năm 1969, Bộ Giáo dục Singapore mới bắt đầu tổ chức biên soạn sách giáo dục công dân, đến năm 1980 thì thành lập Viện Nghiên cứu Phát triển Chương trình với nhiệm vụ biên soạn sách giáo khoa cung cấp cho cả hệ thống. Năm 1996 Viện này kết thúc hoạt động và hiện nay Bộ Giáo dục chỉ tập trung xây dựng chương trình khung, còn sách giáo khoa thì do các nhà xuất bản hoạt động theo cơ chế thị trường thực hiện.

Ở Trung Quốc, tuy nhà nước không chọn nhập khẩu chương trình đào tạo và sách giáo khoa từ nước ngoài, nhưng để chuẩn bị cho cải cách giáo dục bắt đầu từ 2001, những năm 1995-1997, Bộ Giáo dục đã tiến hành khảo sát đánh giá chương trình hiện hành trên diện rộng, cùng với việc nghiên cứu cực kỳ nghiêm túc chương trình của các nước Anh, Mỹ, Canada, Đức, Nhật, Hàn Quốc, Thái Lan, Nga, Thụy Sĩ, Phần lan, Ấn độ, Ai Cập để vận dụng vào chương trình giáo dục của Trung Quốc.

Ở Việt Nam, những năm 20-45 của thế kỷ trước, trong cái thời “phi cao đẳng bất thành phu phụ”, thì chương trình đào tạo của các trường từ tiểu học đến cao đẳng đều là chương trình của Pháp. Sau khi đất nước giành được độc lập, nhìn chung chương trình đào tạo của các trường là do giới trí thức Tây học thời đó biên soạn. Ở miền Nam, trừ một số trường trung học dạy theo chương trình Pháp, thì phần lớn các trường sử dụng chương trình nội địa biên soạn. Tuy nhiên, trong vài thập kỷ gần đây, với xu hướng hội nhập toàn cầu và tăng cường quốc tế hóa, chúng ta thấy việc sử dụng chường trình và sách giáo khoa nước ngoài ngày càng phổ biến ở Việt Nam, và diễn ra ở cả khu vực công lẫn khu vực tư.

Ở bậc ĐH, chúng ta có Chương trình Tiên tiến, một dự án do Bộ GD&ĐT thực hiện trong thời gian 1995-2005 qua việc lựa chọn một số trường trong nước liên kết với các đại học có uy tín của Mỹ để đào tạo cử nhân theo chương trình và công nghệ đào tạo của các trường đại học đối tác này. Giảng viên của các chương trình này là những người đã nhận bằng tiến sĩ, thạc sĩ ở các nước nói tiếng Anh, hoặc các giáo sư người Việt Nam đang giảng dạy ở các đại học nước ngoài và giảng viên của các đại học đối tác. Ngôn ngữ giảng dạy bằng tiếng Anh, giáo trình là những giáo trình đang được sử dụng ở trường đối tác.

Các chương trình liên kết đào tạo nở rộ ở các trường cũng là những chương trình về mặt lý thuyết là nhập khẩu hoàn toàn, cùng với nó là sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, phương pháp đánh giá và bằng cấp. Trong thực tế nó có thực sự tương đương với chương trình và chất lượng ở chính quốc không lại là một vấn đề khác.

Ở bậc học phổ thông, chúng ta có nhiều trường quốc tế ở Việt Nam với 100% chương trình đào tạo của nước ngoài, tuy vậy về nguyên tắc các trường này nhằm phục vụ cho con em chuyên gia nước ngoài làm việc tại Việt Nam, còn  số học sinh người Việt học ở đây thì bị khống chế ở tỉ lệ không quá 10-20% trên tổng số, vì thế, xét trên tổng thể thì những chương trình nhập khẩu này chưa có tác động rộng rãi đối với bức tranh chung về giáo dục.

Nhập khẩu chương trình và sách giáo khoa để áp dụng cho hệ thống giáo dục công lập là một vấn đề hoàn toàn khác.

Trong bối cảnh chất lượng giáo dục trong nước còn nhiều bất cập, nhiều người tỏ ra ủng hộ phương án nhập khẩu “nguyên xi” chương trình đào tạo và sách giáo khoa của nước ngoài thay cho việc biên soạn. Lý do dễ hiểu là lựa chọn này có thể ít tốn kém hơn so với biên soạn mới vì các nước đã phải đầu tư những khoản tiền khổng lồ để biên soạn và thử nghiệm qua nhiều bước để có được những kết quả như thế. Thêm nữa, chương trình và sách giáo khoa quốc tế cũng tạo điều kiện cho học sinh dễ dàng thích ứng với thị trường lao động toàn cầu.

Tuy vậy, câu hỏi đặt ra là việc nhập khẩu chương trình và sách giáo khoa (nếu có) để áp dụng cho cả hệ thống công lập sẽ phải đương đầu với những vấn đề như thế nào?

Triết lý giáo dục

Việc áp dụng một chương trình/mô hình đào tạo cho cả hệ thống khác xa so với việc áp dụng cho một trường hay một số trường. Ở quy mô cấp trường, không khó để tạo lập các điều kiện cho việc thực hiện, huấn luyện giáo viên, tổ chức hoạt động dạy và học. Nhưng ở quy mô hệ thống với bản chất đa dạng vùng miền và đặc điểm xã hội-kinh tế, nhất là với điều kiện hạn hẹp về nguồn lực, thì những thách thức đặt ra là rất lớn.

Chương trình đào tạo thực ra là phương tiện cụ thể hóa, hiện thực hóa mục tiêu giáo dục. Mục tiêu giáo dục là cái được xác định trên cơ sở triết lý giáo dục vốn là nền tảng của cả hệ thống. Vì thế, áp dụng một chương trình đào tạo mà không tính đến cái triết lý giáo dục đã làm nền tảng cho nó quả không khác gì xây nhà mà không có móng.

Triết lý giáo dục, đến lượt nó, được xây lên trên cái nền của thể chế chính trị, truyền thống văn hóa, trình độ phát triển của nền kinh tế và tầm nhìn của lãnh đạo.

Điều này đúng với chương trình của mọi cấp học, và đặc biệt đúng đối với bậc học phổ thông. Vì thế, nếu có ý định nhập khẩu chương trình giáo dục và sách giáo khoa, cần trả lời câu hỏi chúng ta đã sẵn sàng đến mức độ nào trong việc chấp nhận học hỏi và áp dụng triết lý giáo dục vốn là cột trụ của chương trình ấy; cũng như triết lý giáo dục ấy tương thích đến mức độ nào với tầm nhìn của quốc gia và có khả năng đóng góp như thế nào trong mục tiêu phát triển của đất nước. Bằng không, chúng ta sẽ chỉ học được cái vỏ, nhìn thì lấp lánh nhưng thực chất không có bao nhiêu giá trị.

Nội dung giáo dục

Tuy thế giới ngày nay đã trở thành một ngôi làng toàn cầu, chúng ta vẫn có nhu cầu bảo toàn cội nguồn gốc rễ và bản sắc văn hóa của mình; vì một lúc nào đó trong đời chúng ta sẽ có nhu cầu trả lời câu hỏi “Ta là ai? Ta từ đâu đến và sẽ đi về đâu?”. Hơn thế nữa, mỗi nước có những bối cảnh khác nhau và những vấn đề khác nhau tạo thành những trọng tâm khác nhau trong nội dung giáo dục, kể cả khi họ cùng chia sẻ một mục tiêu chung. Vì vậy, nhập khẩu chương trình giáo dục 100% không hẳn là một giải pháp tốt nhất. Đó là lý do nhiều nước chủ trương học hỏi và vận dụng ưu điểm trong chương trình đào tạo của các nước khác thay vì dùng trực tiếp qua phương tiện chuyển ngữ.

Nội dung giáo dục không phải chỉ nằm trong chương trình hay sách giáo khoa, mà nó được thể hiện qua phương pháp sư phạm và các yếu tố khác của cả hệ thống. Chẳng hạn, để thực hiện một triết lý giáo dục như Phần Lan: dựa trên niềm tin vào khả năng của con người, đề cao sự bình đẳng và tinh thần hợp tác, thì hệ thống đánh giá kết quả học tập phải được thiết kế tương ứng, sao cho thi cử và bằng cấp tuyệt nhiên không còn là nỗi ám ảnh hay mục đích độc nhất của người học.

Nội dung giáo dục cũng liên đới chặt chẽ với vấn đề nguồn lực. Giả sử chúng ta muốn đưa giáo dục âm nhạc vào nhà trường như một phần của chương trình chính khóa. Cả nước có 15 triệu học sinh phổ thông, hãy thử tính xem chúng ta cần có bao nhiêu giáo viên âm nhạc và cần bao nhiêu tiền để đào tạo đủ số lượng này (chưa nói tới chất lượng)?

Người thầy và những điều kiện thực thi chương trình

Đây là điều lo ngại lớn nhất của nhiều người. Chương trình có hay, sách giáo khoa có tốt, mà người thầy không được chuẩn bị đầy đủ, thì thất bại vẫn là điều cầm chắc. Chất lượng người thầy lại phụ thuộc nhiều thứ, không chỉ là tiêu chuẩn đầu vào trường sư phạm, quá trình đào tạo, mà còn là cách tuyển dụng, điều kiện đãi ngộ,  môi trường làm việc, thậm chí thiên hướng và phẩm cách cá nhân. Thêm nữa, điều kiện trường lớp, trang thiết bị dạy học, phương tiện tổ chức hoạt động giáo dục, v.v. là những yếu tố cần thiết để hiện thực hóa chương trình và mục tiêu giáo dục. Chẳng hạn, để đào tạo con người chủ động, sáng tạo, chúng ta phải tạo ra môi trường trải nghiệm và dạy bằng cách giải quyết vấn đề. Cách dạy đó đòi hỏi quy mô lớp nhỏ và người dạy được tuyển chọn/ huấn luyện cẩn thận. Những thứ đó liên đới chặt chẽ với nguồn lực tài chính của nhà nước và cách sử dụng nguồn lực đó. Nếu nguồn lực không đủ để đáp ứng đòi hỏi này thì thật khó mà mong đợi kết quả.

Kỳ vọng và thực tế

Chương trình VNEN đang tốn bao giấy mực ồn ào trên công luận vừa qua là một bài học quý giá về việc nhập khẩu mô hình, chương trình, sách giáo khoa, công nghệ đào tạo của nước ngoài. VNEN là mô hình giáo dục nhấn mạnh việc tham gia và hợp tác của người học trong quá trình học tập. VNEN là chương trình dựa trên mô hình Escuela Nueva hay còn gọi là New School Model (Mô hình trường học mới) được trao giải thưởng quốc tế vì nó được xây dựng trên những ý tưởng giáo dục xuất sắc trên thế giới như Montessori hay Waldorf, và được coi là trào lưu văn hóa –sư phạm quan trọng nhất ở Châu Âu nửa đầu thế kỷ XX. Nền tảng triết học của nó là cho rằng con người học tập tốt nhất trong cộng đồng, và khi họ làm chủ được việc học tập. Khi đưa vào Việt Nam nó đã được điều chỉnh cho phù hợp với truyền thống, văn hóa, và điều kiện của Việt Nam. Mặc dù VNEN rất thành công ở một số nơi, ví dụ như Lào Cai, nhưng ở những nơi khác, ít ra là 9/53 tỉnh thành, nhiều ý kiến phản đối gay gắt. “Học sinh VNEN tự tin diễn đạt bản thân nhưng làm toán kém xa tụi học sinh bình thường, nên cho thi chung là chết hết, bởi vậy phụ huynh đến tận trường xin con ra khỏi lớp VNEN.” Ý  kiến này của một cán bộ Phòng GD nơi có chương trình VNEN đã phản ánh rất rõ thực tế VNEN tại Việt Nam.

Thực tế đó cho thấy, nhập khẩu chương trình/mô hình/ sách giáo khoa của bất cứ nơi nào, cũng đều phải tính đến bối cảnh thực tế của Việt Nam, bởi cây quýt trồng đất này thì ngọt, mà trồng đất khác có khi chua. Học hỏi những thành tựu của các nền giáo dục tiên tiến là điều rất quan trọng và cần thiết, chỉ mong sao học cho đến đầu đến đũa, và thực hiện một cách có hệ thống.