Phạm Thị Ly (2012)

            Tình trạng “ế ẩm” của các trường ĐH, CĐ tư thục mấy năm liền đã dẫn đến những biện pháp “khuyến mãi” phản giáo dục của các trường ngoài công lập, thậm chí có trường dùng 0,5 điểm để khuyến mãi, gây ra dư luận phê phán đến nỗi Bộ GD&ĐT đã ra công văn yêu cầu các trường không được áp dụng các biện pháp tuyển sinh bằng mọi giá, dưới mọi hình thức thiếu lành mạnh. Hiệp hội các trường Đại học, CĐ ngoài công lập cũng phải lên tiếng cứu nguy cho các trường bằng công văn kiến nghị Bộ GD&ĐT bỏ điểm sàn hoặc xác định điểm sàn thấp hơn. Nếu tình trạng này tiếp diễn, có nguy cơ một số trường ngoài công lập phải đóng cửa do không có người học. Tuy nhiên, cũng có trường ngoài công lập vẫn đạt chỉ tiêu tuyển sinh 95-96%. Những sự kiện đó đã nói lên điều gì? Phải chăng đó là sàng lọc của cơ chế thị trường, hay do bất cập của chính sách? Và hậu quả của tình trạng đó đối với cả hệ thống GDĐH là như thế nào?

Trong khi giới hàn lâm còn đang thảo luận với nhiều ý kiến trái chiều về “thị trường giáo dục” thì đào tạo đại học ở Việt Nam đã và đang tồn tại như một thị trường cạnh tranh quyết liệt, dù chưa hẳn là một thị trường cạnh tranh tự do và bình đẳng. Nhiều người cho rằng đó là hậu quả của việc mở trường tràn lan. 412 trường ĐH và CĐ cho 90 triệu dân Việt Nam là nhiều hay là ít? So với Trung Quốc có hơn 4.000 trường ĐH-CĐ trên 1,3 tỉ dân, so với Singapore có khoảng 68 trường ĐH, CĐ trên 3 triệu dân (bao gồm cả các trường nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Singapore, các trường liên kết quốc tế, các viện nghiên cứu đào tạo cấp bằng cử nhân và sau đại học); so với Hoa Kỳ có 4.495 trường ĐH-CĐ trên 314 triệu dân, thì số trường ĐH-CĐ mà VN đang có không phải là nhiều. Tất nhiên mọi so sánh đều khập khiễng vì để nói là nhiều hay ít thì không thể chỉ dựa trên con số tuyệt đối mà còn phải dựa vào nhiều yếu tố khác như là trình độ phát triển kinh tế xã hội, GDP đầu người, v.v. Tuy vậy, những con số trên cho chúng ta một gợi ý là vấn đề không nằm ở số lượng, mà chủ yếu là chất lượng.

Đối với người học và gia đình họ, hiển nhiên chi phí học đại học là một sự đầu tư cho tương lai. Đã là đầu tư, lại đầu tư bằng tiền mồ hôi nước mắt của mình, dĩ nhiên ai cũng phải tính đến hiệu quả. Chi phí trung bình của một SV tại ĐH công lập là 560.000 đồng/tháng và ngoài công lập là 2.395.980 đồng/tháng, chiếm 97% hoặc 122% (tùy theo trường công lập/ ngoài công lập) thu nhập gia đình của nhóm thu nhập thấp, 38,5% hoặc 58,6% thu nhập gia đình của nhóm thu nhập trung bình[1]. Vậy thì người học phải đắn đo cân nhắc trước việc học trường nào là điều dễ hiểu, và câu hỏi lớn nhất đặt ra sẽ là: khả năng tìm được việc làm và triển vọng thu nhập sau khi ra trường.

Các trường tư đang trách móc trường công đã vét sạch nguồn thí sinh của họ, tận thu luôn cả hệ cao đẳng và chính sách tuyển sinh đang tạo thuận lợi cho việc đó, gây thêm khó khăn cho các trường ngoài công lập. Đó là một nguyên nhân trực tiếp nhưng không phải là nguyên nhân cơ bản. Nếu nhìn vào bức tranh toàn cảnh, chúng ta sẽ thấy ngay chính các trường công cũng đang có khó khăn trong việc tuyển sinh và nhiều ngành học đang có nguy cơ đóng cửa. Tình trạng khó khăn trong tuyển sinh ĐH chính là câu trả lời của người tiêu dùng về giá trị gia tăng mà bốn năm học đại học mang lại cho họ.

Một cuộc khảo sát do Trung tâm Nghiên cứu và Phân tích Chính sách thuộc Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học quốc gia – ĐHQG Hà Nội) thực hiện, với quy mô gần 3.000 cựu sinh viên thuộc 5 khóa khác nhau (ra trường từ năm 2006 đến 2010) của 3 đại học: ĐHQG Hà Nội, ĐHQG TP. HCM và ĐH Huế, đã cho thấy những con số báo động. Có đến 26, 2% cử nhân cho biết chưa tìm được việc làm, dù khái niệm việc làm ở đây được hiểu rất rộng là bất cứ công việc gì tạo ra thu nhập, không nhất thiết phải đúng với trình độ, chuyên ngành đào tạo. Trong số này, 46,5% cho biết đã đi xin việc nhưng không thành công. 42% lựa chọn một giải pháp an toàn là… tiếp tục học lên hoặc học thêm một chuyên ngành khác. Thậm chí, có 27% cử nhân được hỏi cho biết, họ rất khó kiếm việc làm do ngành học của mình không phù hợp với thị trường. Số người rơi vào cảnh nhà tuyển dụng không hiểu về ngành học cũng chiếm tới 18%. Các khảo sát trên đây đa số được thực hiện tại các đại học quốc gia, đại học vùng – những đại học ‘đầu tàu’ của Việt Nam. Thực trạng này ở các trường đại học khác có lẽ cũng không khả quan hơn[2].

Những con số trên đây đã cho thấy ít nhất là hai vấn đề nghiêm trọng. Một là chất lượng giáo dục hiểu theo ý nghĩa hẹp nhất là năng lực, kỹ năng thụ đắc được sau quá trình bốn năm học ở bậc đại học, đã thấp đến nỗi hơn một phần tư sinh viên sau khi ra trường từ một đến năm năm vẫn chưa tìm được việc làm, kể cả những việc trái ngành nghề hay những việc không cần được đào tạo ở bậc đại học. Hai là giữa nhà trường và thế giới việc làm bên ngoài đang có một khoảng cách quá lớn. Trong lúc các doanh nghiệp không ngớt than phiền thiếu người làm được việc và khẳng định nguồn nhân lực có chất lượng cao đang là chỗ « thắt cổ chai » cản trở những kế hoạch phát triển của họ, thì các cô cậu cử nhân mà các trường ĐH tạo ra vẫn không lấp được chỗ trống ấy vì họ được học trong trường những điều mà họ không mấy khi dùng được trong thực tế nghề nghiệp, và đã không được học những gì thực sự cần thiết mà thị trường lao động đòi hỏi cho công việc tương lai của họ.

Vậy thì tình trạng khó khăn trong tuyển sinh đã gửi đi một tín hiệu báo động cho tất cả các trường đại học, và xét về mặt này, thì hiện tượng đó có ý nghĩa tích cực. Nó khiến cho tất cả các trường công và tư đều phải nhìn lại hoạt động và chương trình đào tạo, kết quả đào tạo của mình, theo hướng coi người học là trung tâm và gắn chặt với nhu cầu của thị trường lao động. Đăc biệt là vì chúng ta đang hoạt động trong không gian toàn cầu hóa. Những gia đình ở tầng lớp trên có điều kiện hầu hết đã gửi con em đi học ở nước ngoài. Những gia đình có mức thu nhập thấp hơn đang là khách hàng của những cơ sở đào tạo đại học vì lợi nhuận của nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, hoặc những chương trình liên kết quốc tế. Nhóm có thu nhập thấp hơn nữa, thì ngay cả học phí trong nước (đang được các trường cho là quá thấp) cũng không kham nổi.

Cạnh tranh lành mạnh là điều tốt cho cả hệ thống, vì nó sẽ kích thích chất lượng và sự đổi mới. Thị trường sẽ tạo ra động lực cho các trường, như chúng ta đã thấy, những tấm bằng tốt nghiệp đại học không kèm theo giá trị và phẩm chất tương ứng, đã và sẽ tiếp tục bị từ chối trên thị trường lao động. Lối thoát tốt nhất nếu không nói là duy nhất của các trường, là phải biện minh được sự tồn tại của mình, bằng những lợi ích rất thực tế mà mình mang lại cho người học: khả năng tìm được việc làm, tạo ra thu nhập, thăng tiến trong sự nghiệp. Tương lai của từng trường, danh tiếng, uy tín, sự thịnh vượng và phát triển rực rỡ của mỗi trường sẽ được định nghĩa bằng thành công của những người được đào tạo từ ngôi trường ấy.

 

[1] Dựa trên kết quả nghiên cứu của TS Nguyễn Ngọc Anh và đồng sự. “Cơ chế phân bổ ngân sách cho GDĐH công lập, hiện trạng và khuyến nghị” (2012).

[2] Nguồn: Website sinh viên Việt Nam: http://www.svvn.vn/vn/news/doisong/4121.svvn